Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2014

ST Mười kỷ lục về biển đảo Việt nam

10 kỷ lục về biển đảo Việt Nam

Nhân tuần lễ "Biển đảo Việt Nam" (1-6 đến 8-6), Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công bố 10 kỷ lục về biển đảo trên các lĩnh vực lịch sử, địa lý và văn hóa - nghệ thuật.

1. Hoàng Sa, Trường Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam được đặt nhiều tên nhất (Hoàng Sa, Trường Sa, Vạn Lý Trường Sa, Đại Trường Sa, Cát (Kát) Vàng, Cồn Vàng; Phương Tây gọi là Paracel )

10 kỷ lục về biển đảo Việt Nam
Người Bồ Đào Nha, Hà Lan đặt tên Hoàng Sa là Parcel, Pracel (có nghĩa là ám tiêu) ; người Anh đặt tên Trường Sa là Pratlys, người Pháp đặt tên Trường Sa là Spratleys.. .Và đặc biệt ghi chú rõ ràng Paracel là Cát Vàng (bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ, 1838 của Taberd; hoặc Kát Vàng, Cồn Vàng) trong bài báo “Geography of the Cochinchine Empire” của GutzLaff naeng trong The Journal of the Geographical Society of London, vol. the 19th,1849, trang 97).

2. Hoàng Sa - Trường Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam có không gian lớn nhất, dài nhất, rộng nhất, sâu nhất, xa nhất, có nhiều đảo đá nhất

Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000km2, giữa kinh tuyến 111 độ Đ đến 113 độ Đông, khoảng 95 hải lý (1 hải lý = 1,853 km), từ 17o05’ xuống 15o,45’độ vĩ Bắc, khoảng 90 hải lý; xung quanh là vùng biển có độ sâu hơn 1000m, song giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m.

Về khoảng cách với đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần đất liền Việt Nam hơn cả:

Từ đảo Tri Tôn đến Mũi Ba Làng An (Cap Batangan:15 độ vĩ B, 108 độ 6’ kinh Đ), tức đất liền lục địa Việt Nam đo được 135 hải lý, cách Cù Lao Ré chỉ có 123 hải lý, trong khi đó khoảng cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải Nam xa tới 140 hải lý (đảo Hoàng Sa - Pattle:16 độ vĩ B, 111 độ 6’ kinh Đ và Ling-Sui hay Leong Soi: 18độ vĩ B, 110 độ 03 kinh Đ); nếu tính tới đất liền lục địa Trung Hoa còn xa hơn nhiều, tối thiểu là 235 hải lý .

Trong khoảng 30 đảo, đá, bãi, cồn, hòn trên, hiện có 23 đã được đặt tên, gồm 15 đảo, 3 bãi, 3 đá, 1 cồn, 1 hòn. Ngòai ra còn vô số mỏm đá.

Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa hiện nay tính đến đảo gần nhất vào khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 hải lý, Cam Ranh 250 hải lý, đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan Thiết) 270 hải lý.

Quần đảo Trường Sa trải dài từ vĩ độ 60 2 vĩ B tới 110 28 vĩ B, từ kinh độ 1120 Đ đến 1150Đ trong vùng biển chiếm khoảng 160.000km2 - 180.000km2. Biển tuy rộng nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi lên khỏi mặt nước lại rất ít, chỉ tổng cộng khoảng 11 km2.

3. Hoàng Sa, Trường Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam được vẽ nhiều nhất trên tất cả các bản đồ cổ và hiện đại của Việt Nam và Quốc tế.

10 kỷ lục về biển đảo Việt Nam
Người dân thành phố xem bản đồ cổ thể hiện chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa tại đường sách Tết Giáp Ngọ 2014. Ảnh: K.Khánh

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã sưu tầm và đang lưu giữ hàng trăm bản đồ cổ ở các nước Phương Tây cũng như Việt Nam,Trung Hoa vẽ về Parcel, Pracel hay Paracel, Spratleys, Spartlys tức Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Với 50 bản đồ mô tả nước Việt Nam với thềm lục địa và Biển Đông ấn hành suốt từ 1525 đến 1886, chúng ta thấy dần dần sự hiểu biết của thế giới về đất nước Việt Nam ngày một chính xác, cả về hình thể, lẫn địa danh (trong đó, gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa).

4. Lễ hội dân gian duy nhất có từ xa xưa mô tả những khó khăn, gian khổ nhưng rất oai hùng của những người lính Việt Nam canh giữ chủ quyền biển đảo Hoàng Sa – Trường Sa.

Lễ hội Hoàng Sa được tổ chức tại Miếu Hoàng Sa ở làng An Vĩnh, xã An Hải, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 20 tháng 2, âm lịch hằng năm. Thời Chúa Nguyễn (Thế kỷ 17-18) đến thời vua Gia Long, Minh Mạng…(TK 19), tại Lý Sơn, Quảng Ngãi có thành lập một đội lính Hoàng Sa để vượt biển bằng những chiếc thuyền nhỏ bé, đi tuần tra ở những hòn đảo xa xôi ngoài khơi Thái Bình Dương, đó là quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Đội lính này một đi không trở lại vì ngoài khơi sóng gió, bão bùng làm tàu thuyền bị đắm. Người lính Hoàng Sa nhận nhiệm vụ ra đi là coi như đã chết. Cho nên người dân Quảng Ngãi đến nay vẫn còn lưu truyền câu ca dao :

“Hoàng Sa trời nước mênh mông,

Người đi thì có mà không thấy về.

Hoàng Sa mây nước bốn bề,

Tháng hai khao lề tế lính Hoàng Sa.”

10 kỷ lục về biển đảo Việt Nam
Bởi vậy, trước khi lên thuyền ra khơi, đội lính này làm lễ tế thần tại một ngôi miếu có thờ Cốt ông Hoàng Sa (xương cá voi), gọi là Thần Hoàng Sa do những người lính Hoàng Sa đưa về từ quần đảo này cách đây chừng 300 năm.

Hằng năm vào ngày 20, tháng 2, âm lịch tức là ngày những người lính Hoàng Sa chuẩn bị xuống thuyền, người ta thực hành Lễ khao lề thế lính với ý nghĩa cầu mong cho người ra đi được bình yên trên dặm dài sóng nước để trở về cùng gia đình. Đến 9 giờ đêm 20, tháng 2, người ta mổ heo, gà và đến nửa đêm lễ tế chính sẽ được bắt đầu và kéo dài khoảng vài tiếng đồng hồ. Ngoài những lễ vật như heo, gà vừa kể, người ta còn thấy có cả gạo, muối, mắm, củi, nồi niêu…là những vật dụng mà trước đây lính Hoàng Sa phải mang theo. Đặc biệt trong lễ hội này còn có các linh vị và các hình nộm ở trên có danh tánh người lính Hoàng Sa đã bị tử nạn.

10 kỷ lục về biển đảo Việt Nam
Tất cả những lễ vật, linh vị và hình nộm đều được đặt vào trong một chiếc thuyền có đốt nhang, đèn sáng rực. Sau khi thầy pháp cúng tế xong, chiếc thuyền được 4 thanh niên khỏe mạnh khiêng xuống biển và thả trôi mất tăm, mất tích. Lúc này cũng chừng khoảng 3 giờ sáng.

Đây là một lễ hội nhằm ghi nhớ công lao của những người lính Việt Nam đã hy sinh thân mình để canh giữ biển đảo Hoàng Sa – Trường Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam đã được xác định cách đây hơn 500 năm (thời Hồng Đức - 1490).

5. Cuốn sách viết về Quốc hiệu, Cương vực và tập hợp số lượng bản đồ cổ và hiện đại về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nhiều nhất. (Xác lập kỷ lục Việt Nam năm 2013)

Cuốn sách của tác giả Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu do “Nhà xuất bản Trẻ” phát hành năm 2012, là công trình vừa mang tính khoa học, vừa phổ thông; khái quát suốt chiều dài lịch sử hơn 4000 năm của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, để cập nhật vấn đề thời sự, tác giả bổ sung phần về Lãnh hải Việt Nam gồm nhiều tư liệu và bản đồ cổ của thế giới ghi nhận Hoàng Sa - Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam suốt hơn 500 năm qua.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu

Bằng lý lẽ và tài liệu sử học, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã trưng ra một số bản đồ về thềm lục địa và các hải đảo Việt Nam do người Pháp, Bồ Đào Nha, Trung Quốc, Việt Nam... vẽ cách đây hàng trăm năm - trong đó đặc biệt nhấn mạnh về phương diện lịch sử và luật pháp quốc tế để chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam. Gần 100 bản đồ cổ, từ thời nhà Lê thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 19.

Bìa quyển sách của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu
Bìa quyển sách của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu sinh ngày 12 tháng 3 năm 1920 (giấy tờ ghi là 1923) tại Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình tín đồ Công giáo nghèo nhưng học rất giỏi. Thuở nhỏ thường theo giúp mẹ kiếm sống và học tại trường tiểu học Pháp - Việt ở cuối phố Huế, Hà Nội. Sau khi học xong bậc Trung học, năm 1939, ông theo học trường Bách Nghệ - Hà Nội và tốt nghiệp năm 1941. Ông là tác giả của hàng trăm công trình nghiên cứu lịch sử, địa

6. Người có công trình nghiên cứu và hồ sơ, tài liệu về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam được dịch sang tiếng Anh nhiều nhất.

Tiến sĩ Nguyễn Nhã, nhà nghiên cứu sử địa nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh năm 1939 tại Ninh Bình nhưng sống và làm việc tại Sài Gòn.

Tiến sĩ Nguyễn Nhã
Tiến sĩ Nguyễn Nhã

TS Nguyễn Nhã đến với vấn đề chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa là khi Biển Đông nổi sóng dữ dội. Đó là lúc Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa năm 1974. Ông nghĩ, mình phải làm điều gì đó để chứng minh chủ quyền quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam. Và ông bắt tay vào liên lạc với các học giả nổi tiếng Việt Nam trong và ngoài nước. Trong đó có học giả Hoàng Xuân Hãn ở Pháp, Lãng Hồ Nguyễn Khắc Kham ở Nhật, Ông Quốc Tuấn ở Ấn Độ...

Là chủ biên Tập san Sử Địa, một năm sau ngày Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa, ông đứng ra tổ chức cuộc triển lãm sử liệu minh chứng chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam và ra mắt Tập san Sử Địa số 29, đặc khảo về Hoàng Sa - Trường Sa.

Năm 2003, ông trình đề tài nghiên cứu luận án Tiến sĩ cấp quốc gia với chủ đề về “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.” Sau đó, ông đã tham gia viết nhiều tác phẩm, dự nhiều hội thảo trong nước và quốc tế. Trong đó có 4 hội thảo quốc tế về Biển Đông ở Việt Nam và hội thảo tại Đại học Temple, Philadelphia năm 2010, hội thảo tại Đại học Harvard năm 2012, v.v.

Ngoài ra, ông còn tập hợp hồ sơ, tài liệu về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam để dịch ra tiếng Anh hơn 500 trang gồm 3 phần: Phần I : Trích nguyên văn Tài liệu của Quân đội Mỹ năm 1960 về chủ quyền của Việt Nam bị tranh chấp và 37 tài liệu của Phương Tây từ trước thế kỷ 19 nói về chủ quyền của Việt Nam tại Paracel (quần đảo Hoàng Sa). Phần II gồm 3 bài tham luận chọn lọc trong các hội thảo về Biển Đông trong và ngoài nước. Phần III gồm toàn văn Luận án Tiến sĩ sử học “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa” và các phụ lục được cập nhật hóa các tư liệu mới phát hiện. Ông đã đưa tập hồ sơ tài liệu này đến Hội Địa lý quốc gia Mỹ, văn phòng Thượng Nghị sĩ J. Mc Cain, Jim Web và sẽ đưa tới thư viện các trường Đại học trên thế giới.

7. Đạo diễn thực hiện nhiều phim tư liệu và phim truyện có nội dung về biển đảo Việt Nam nhất (Xác lập kỷ lục năm 2012)

Nguyễn Văn Lượng sinh năm 1957, tại Hải Phòng, là đạo diễn chuyên nghiệp của Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng từ năm 1985. Ông đã thực hiện 221 bộ phim về đề tài đất nước – con người miền biển đảo Việt Nam từ năm 1988 đến nay, trong đó có các thể loại: phim truyện, phim tài liệu, phim phóng sự...

Đạo diễn Nguyễn Văn Lượng
Đạo diễn Nguyễn Văn Lượng

Phim của ông mang đậm nét biển đảo quê hương, với nhiều tình tiết, nhiều phân đoạn, phân cảnh… lột tả hết tâm trạng nhân vật, nói lên tình yêu quê hương miền biển đảo của người Việt Nam một cách nồng nàn, sâu sắc. Bàng bạc trong phim của ông là những cảnh, những tình huống mô tả về người Việt Nam dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù phải hy sinh mất mát bao nhiêu cũng hết sức, hết lòng để bảo vệ chủ quyền biển đảo tổ quốc Việt Nam.

Phim của đạo diễn Nguyễn Văn Lượng đã đóng góp không nhỏ trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người biển đảo Việt Nam. Với thành quả ấy, năm 2012, đạo diễn Nguyễn Văn Lượng đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục: "Đạo diễn có số lượng phim về đề tài đất nước – con người miền biển đảo nhiều nhất”.

8. Bài thơ được cộng đồng Kỷ lục gia Việt Nam bình chọn để các nhà thư pháp kỷ lục gia viết thành Bức lụa thư pháp có độ dài kỷ lục đang được trưng bày tại Nhà Truyền thống huyện đảo Trường Sa.

Bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển của tác giả Nguyễn Việt Chiến, ông là một nhà thơ – nhà báo (Báo Thanh Niên-Việt Nam).

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến

Tổ quốc nhìn từ biển được ông viết năm 2009 trong lần dự Trại sáng tác Văn học của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Hạ Long do Tạp chí Văn nghệ Quân đội phối hợp với Cục chính trị quân chủng Hải quân tổ chức với đề tài sáng tác "Biển, đảo và người chiến sĩ hải quân” với sự tham gia của đông đảo các cây bút sung sức trong và ngoài quân đội. Bài thơ thể loại 8 chữ, có tất cả 40 câu, có sức lan tỏa rất nhanh, được rất nhiều trang mạng điện tử trong và ngoài nước cùng hàng nghìn blog đưa lại.

Trong dịp Hội ngộ kỷ lục gia lần thứ 23 được tổ chức tại khách sạn REX (TPHCM), đại đa số kỷ lục gia Việt Nam đã bình chọn bài thơ này để các kỷ lục gia thư pháp viết thành Bức lụa thư pháp trao tặng cho ông Nguyễn Đức Thắng – Chủ tịch UBND huyện đảo Trường Sa. Bức lụa thư pháp kỷ lục Tổ quốc nhìn từ biển hiện đang được trưng bày tại Nhà Truyền thống huyện đảo Trường Sa.

Tổ quốc nhìn từ biển

Sáng tác: Nguyễn Việt Chiến

-----------------------------------------

Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển

Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa

Ngàn năm trước con theo cha xuống biển

Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa


Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả

Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn…

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo

Lạc Long cha nay chưa thấy trở về

Lời cha dặn phải giữ từng thước đất

Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi

Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể

Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù

Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ

Thương Hòn Mê bão tố phía âm u…

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa

Đã mười lần giặc đến tự biển Đông

Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử

Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng


Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy

Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân

Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả

Những chàng trai ra đảo đã quên mình

Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước *

Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát

Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời

Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi.

Ông đồ - bà đồ bên bức trướng họa thư pháp về biển đảo dài kỷ lục.
Ông đồ - bà đồ bên bức trướng họa thư pháp về biển đảo dài kỷ lục.

9. Thuyền trưởng – Nhạc sĩ viết nhiều ca khúc về biển đảo nhất (Xác lập kỷ lục năm 2013)

Thuyền trưởng – Nhạc sĩ Tôn Huy (Tôn Quang Huy) sinh năm 1942 tại Hà Tĩnh. Năm 1963 tốt nghiệp đại học Hàng hải ở Hải Phòng và được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Sau đó ông xuống tàu lênh đênh trên biển khơi đi đây, đi đó và đã từng là thuyền trưởng trong suốt một thời gian dài. Là người có năng khiếu, đam mê âm nhạc nhạc từ thưở nhỏ, đến thời sinh viên ông tự học nhạc và bắt đầu sáng tác. Khi lên thuyền ra khơi, ông đã viết những ca khúc trữ tình, lãng mạn về biển đảo và sóng trùng dương mênh mông.

Thuyền trưởng - nhạc sĩ Tôn Huy
Thuyền trưởng - nhạc sĩ Tôn Huy

Năm 1990, ông vào đất liền rồi thi vào Nhạc viện TPHCM. Năm 2000 ông tốt nghiệp Cử nhân Nghệ thuật, từ đó con đường sáng tác âm nhạc của ông rộng mở hơn. Trong hơn 30 năm sáng tác, ống đã viết trên 100 ca khúc, trong đó có 12 ca khúc mang chủ đề về biển đảo tổ quốc Việt Nam gồm: Biển gọi, Khúc hát biển xanh, Em gái đảo xanh, Tình khúc đại dương, Mùa xuân với biển, Đường Bác Hồ trên biển, Sài Gòn mưa nắng, Hải Phòng và em, Chiều Quy Nhơn, Biển tình, Với biển, Tình khúc người đi biển.

10. Ca khúc viết về biển đảo cùng một lúc được hai giải thưởng âm nhạc cao nhất của Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hội Âm nhạc TP Hồ Chí Minh.

Ca khúc Tổ quốc gọi tên mình của tác giả Đinh Trung Cẩn (phổ thơ Nguyễn Phan Quế Mai ). Nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn hiện là Giám đốc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam - Chi nhánh phía Nam.

Nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn
Nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn

Sau khi đọc, suy ngẫm, thẩm thấu và rung cảm với nội dung bài thơ Tổ quốc gọi tên mình của Nguyễn Phan Quế Mai, nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn đã cảm tác phổ thành ca khúc để hưởng ứng tác phẩm dự thi sau khi lễ phát động viết ca khúc về biển đảo được công bố. Bài hát được viết cung La muneur, nhịp 6/8, điệu thức chậm, nồng nàn, tha thiết... và được các ca sĩ thành danh, nổi tiếng như NSƯT Tạ Minh Tâm, NSND Quang Thọ... trình bày.

Cuối năm 2011, Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hội Âm nhạc TP.HCM đều công bố quyết định trao tặng Giải A (giải cao nhất) cho ca khúc Tổ quốc gọi tên mình.

Theo K.Khánh
Người lao động

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014

ST Sáng kiến để có "Điều hòa nhiệt độ" rẻ tiền

Độc chiêu chế điều hòa 200 ngàn của dân nghèo

Chỉ cần chiếc thùng xốp, quạt điện mini, một đoạn ống nhựa ngắn, keo dán với vài công đoạn hết sức đơn giản là có thể tự chế ra điều hòa mát lạnh. Nhiều người thuê nhà trọ đã nghĩ ra cách này để chống chọi cái nắng thiêu đốt lên đến 40 độ C ở Hà Nội.

Mới đây, anh Nguyễn Văn Dũng chia sẻ trên facebook cá nhân về cách làm điều hòa tự chế siêu rẻ mà anh học hỏi được trên các diễn đàn, mạng xã hội để bạn bè anh có thể làm theo.
Anh Dũng cho biết, vào những ngày nắng nóng lên đến đỉnh đểm (trên 40 độ C), không phải ai cũng có điều kiện được ở trong căn phòng có điều hòa mát lạnh, nhất là với người có thu nhập thấp, công nhân, sinh viên... Khổ nhất là những người ở trọ, trong những căn phòng chỉ chục mét vuông. Nắng nóng, nhà như biến thành cái lò bát quát, ngồi trước quạt mà mồ hôi vẫn đầm đìa. Nhà nào cũng tìm mọi cách chống nóng, nhưng không ăn thua.
“Cũng may, một lần lướt web, tôi thấy mọi người chia sẻ khá nhiều về cách tự làm điều hòa siêu rẻ, siêu đơn giản mà tính năng làm mát không khác gì điều hòa xịn”, anh cho hay.
Độc chiêu chế điều hòa 200 ngàn của dân nghèo
Công đoạn làm hết sức đơn giản: vẽ hình tròn rồi dùng dao tạo hai lỗ tròn theo hình đã vẽ, lắp ống nhựa và quạt điện vào hai lỗ tròn khoét trên nắp của thùng xốp
Độc chiêu chế điều hòa 200 ngàn của dân nghèo
Khi hoàn thành, chỉ cần bỏ đá vào thùng xốp, bật quạt là có thể tận hưởng cảm giác mát lạnh không khác gì chiếc điều hòa.
Độc chiêu chế điều hòa 200 ngàn của dân nghèo
Cách làm điều hòa tự chế siêu rẻ được mọi người chia sẻ trên các diễn đàn để cùng chống chọi với cái nắng gay gắt của mùa hè
.
Theo anh Dũng, để chế điều hòa siêu rẻ chỉ cần một thùng xốp (loại to nhỏ tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng), một quạt điện mini, một đoạn ống nước nhựa hình chữ L, keo dán với các công đoạn cực kỳ đơn giản.
Cụ thể, vẽ 2 hình tròn trên phần nắp đậy của thùng xốp, đường kính của hình tròn bằng với khớp nối ống nước và lồng ngoài quạt điện. Sau đó, dùng dao rọc giấy tạo 2 lỗ tròn, cố định phần quạt để bàn với hướng của lồng quạt quay vào trong thùng xốp và đoạn ống nước hình chữ L. Dùng keo con voi dán cố định chiếc quạt để bàn với ống nước hình chữ L vào nắp thùng xốp. Sau khi hoàn thành, công đoạn cuối cùng: chỉ cần bỏ đá vào thùng xốp, đậy nắp và tận hưởng cảm giác mát lạnh được tạo ra từ chiếc điều hòa tự chế thú vị.
Trên thực tế, rất nhiều người đã chia sẻ cách chế điều hòa siêu rẻ này. Một số người cho biết đây là ý tưởng hay, sáng tạo, hợp với túi tiền của những người có thu nhập thấp. Trong khi đó, số khác lại cho rằng, tiền đầu tư thì không tốn nhưng tiền mua đá bỏ vào hàng ngày lại tốn ngang tiền điện chạy điều hòa.
“Mình thấy cách tự chế điều hòa siêu rẻ từ thùng xốp, quạt điện, ống nhựa rất sáng tạo và đã áp dụng ngay cho phòng trọ của mình. Tổng chi phí hết 200.000 đồng. Thùng xống đi mua ngoài hàng hoa quả chỉ 15.000 đồng/chiếc, quạt điện mini hết 170.000 đồng, keo dán con voi 5.000 đồng và ống nhựa hết 10.000 đồng nữa”, thành viên Duythanh viết.
Theo Duythanh, 200.000 đồng là quá rẻ với một chiếc điều hòa xịn giá 7-10 triệu đồng. Còn tiền đá thì tùy nhu cầu sử dụng điều hòa tự chế của mỗi người. “Mình đi làm tối mới về phòng trọ, mua 5.000 tiền đá bỏ vào thùng xốp là máy có thể chạy được 3 tiếng đồng hồ. Đến khi đá tan thành nước vẫn giữ được mát như quạt hơi nước”.
Anh Trần Thanh Tùng cũng cho rằng, tính đi tính lại điều hòa tự chế vẫn tiết kiệm điện hơn điều hòa xịn. Anh Tùng nhẩm tính, điều hòa có công suất 9.000 BTU một tiếng đồng hồ hết khoảng 1 số điện, còn điều hòa tự chế, chỉ mất vài nghìn tiền đá, không thì đổ nước vào cũng chẳng khác quạt phun sương. Mà quạt phun sương giờ rẻ cũng 1 triệu đồng/chiếc, tốt hơn thì 1,5-2 triệu đồng/chiếc.
Theo Bảo HânVietNamnet

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

ST Để hiểu thêm về công thư 1958

Công thư 1958 có nội dung như thế nào?

-
Ghi nhận và tán thành quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc nhưng công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. 
Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.
Tháng 8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng" Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Một tháng sau, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí này cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến.
Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Tháng 8 năm đó, Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan - Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.
Trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. 
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa" của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép" thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.
Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4/9/1958, Thủ tướng Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).
Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Công thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
"Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng".
Công thư 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Trong công thư 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. 
Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế.
Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công thư 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. 
Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu.
Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. 
Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.
Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. 
Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn" Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình".
Theo Chinhphu.vn

Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2014

ST tại Vietnamnet: Chuyện người mẹ đòi lại con của mình

Chuyện cảm động về người mẹ ra tòa đòi 'báu vật'

 Vietnamnet

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

Trung Quốc đã xuyên tạc, vu khống như thế nào?

Kêu gọi xây dựng lòng tin tại châu Á, nhưng Trung Quốc đã không chỉ xuyên tạc, vu khống cho Việt Nam về nhiều vấn đề liên quan đến biển đảo, trong đó có Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, mà còn “nói một đằng, làm một nẻo” trên Biển Đông.

Trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế ngày 21/5, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh, trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến dàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền và thềm lục địa Việt Nam, bất chấp thiện chí hòa bình, đối thoại của Việt Nam, Trung Quốc đã không chỉ ngày càng gia tăng sức mạnh, các hành động uy hiếp và xâm phạm, mà còn “liên tục vu khống và đổ lỗi cho Việt Nam. Những gì mà Trung Quốc đang làm khác rất xa những gì mà Trung Quốc nói”.

Trung Quốc đã xuyên tạc, vu khống như thế nào? - Ảnh 1

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: "Những gì mà Trung Quốc đang làm khác rất xa những gì mà Trung Quốc nói”.

Nhìn lại tình hình trong những ngày qua, cộng đồng quốc tế đều thấy rõ Trung Quốc đã “vu khống và đổ lỗi” cho Việt Nam như thế nào, ít nhất là ở những điểm sau đây.
Thứ nhất, Trung Quốc nói phía họ chỉ có tàu chính phủ và tàu dân sự tại khu vực giàn khoan, còn Việt Nam có tàu quân sự, và các tàu Trung Quốc là “nạn nhân” của các tàu Việt Nam. Nhưng tại các cuộc họp báo do họ tổ chức, khi được báo chí yêu cầu bằng chứng, họ đã không đáp ứng được.
Trong khi đó, báo chí Việt Nam đã đưa ra rất nhiều hình ảnh, kể cả video clip chứng minh điều ngược lại, rằng Trung Quốc đã điều cả tàu quân sự tới khu vực giàn khoan, các tàu của Trung Quốc đã hung hăng, chủ động đâm va, phun vòi rồng, gây thiệt hại cho các tàu của Việt Nam như thế nào.
Thứ hai, Trung Quốc cố tình lập lờ về vùng biển mà giàn khoan Hải Dương 981 đang xâm phạm. Lập luận ngụy biện của họ là giàn khoan này đang nằm tại “tại vùng biển cách đảo Trung Quốc 17 hải lý, trong khi vùng biển này cách bờ biển Việt Nam 150 hải lý”.
Đưa ra lập luận ngụy biện này, Trung Quốc đã cố tình lờ đi một sự thật: Quần đảo Hoàng Sa, cũng như quần đảo Trường Sa, là của Việt Nam và năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa khi đó đang do chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý.
Hơn nữa, cái mà Trung Quốc đưa ra và coi như “bằng chứng” trong trường hợp này vô cùng yếu về mặt pháp lý, nếu không muốn nói là hoàn toàn vô giá trị theo luật pháp quốc tế; và cứ giả sử rằng có ai đó thừa nhận lập luận như vậy, thì cũng phải nhắc lại: Đó là vùng biển quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Thứ ba, Trung Quốc dường như có ý muốn nói họ đã “nhường nhịn” với cách nói rằng Hải Dương 981 là giàn khoan duy nhất của Trung Quốc tại khu vực, trong khi Việt Nam đang có hơn 30 giàn khoan tại đây. Cứ cho rằng thông tin này là chính xác, thì đó lại là một minh chứng hùng hồn rằng, khu vực này thuộc về vùng biển Việt Nam một cách hiển nhiên, không thể tranh cãi và đã được cả thế giới thừa nhận.
Bởi chẳng có lý do gì để cộng đồng quốc tế phản đối một quốc gia đang tiến hành những hoạt động như thế trong khu vực thuộc thẩm quyền của quốc gia ấy. Nhưng một và chỉ một hành động đơn phương sai trái trong vùng biển của nước khác lập tức sẽ bị cả thế giới đồng thanh lên án, mà việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam rõ ràng là một ví dụ đắt giá. “Bằng chứng” mà Trung Quốc đưa ra chẳng thuyết phục được ai về sự “nhường nhịn” của họ, mà chỉ chứng minh rằng lẽ phải thuộc về Việt Nam.
Thứ tư, Trung Quốc còn cố tình vu khống Việt Nam sau một số vụ việc bất ổn về an ninh trật tự vừa qua, cố tình muốn tạo dựng hình ảnh một Việt Nam bất ổn, “hung hăng” và thiếu trách nhiệm với các nhà đầu tư. Thủ đoạn của họ là cố tình lập lờ, đánh đồng sự manh động của một số rất ít người bị kích động mà vi phạm pháp luật với các hoạt động bảo vệ chủ quyền trên biển, kiên nhẫn, kiềm chế, tuân thủ đúng luật pháp quốc tế của các lực lượng chức năng Việt Nam, cũng như các hành động biểu thị lòng yêu nước đúng đắn, hòa bình của tuyệt đại đa số người dân Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam đã không chỉ một lần thẳng thắn nói rõ về nguyên nhân của các vụ việc đáng tiếc đã xảy ra; cơ quan chức năng đã bắt giữ và sẽ xử lý nghiêm minh các đối tượng vi phạm pháp luật. Chính phủ và các cơ quan chức năng Việt Nam đã và đang làm hết sức mình để bảo đảm an ninh, an toàn tuyệt đối cho các nhà đầu tư nước ngoài; giúp đỡ, hỗ trợ nhà đầu tư khắc phục tối đa thiệt hại, kể cả các nhà đầu tư Trung Quốc. Rất nhiều người dân tỉnh Hà Tĩnh đã tình nguyện tham gia chữa trị cho những người Trung Quốc bị thương trong các vụ gây rối. Tình hình đã nhanh chóng ổn định trở lại, an ninh, trật tự an toàn xã hội đã được bảo đảm, hầu hết các doanh nghiệp đã trở lại hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường. Các nhà đầu tư sẽ đánh giá chính xác về môi trường đầu tư của Việt Nam, về thiện chí của Việt Nam, bức tranh xuyên tạc, phóng đại về Việt Nam do những người thiếu thiện chí cố vẽ ra không thể lừa bịp được ai.
Thứ năm, Trung Quốc cố tình ngụy biện, xuyên tạc nội dung, ý nghĩa Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Không phải chỉ bây giờ, báo chí Việt Nam đã từng rất nhiều lần đưa ý kiến của rất nhiều chuyên gia pháp lý trong nước và quốc tế, bẻ gãy luận điệu của Trung Quốc về Công hàm này, phủ nhận mọi suy diễn về Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như khẳng định đó là sự xuyên tạc và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Nhưng việc Trung Quốc xuyên tạc nội dung, ý nghĩa Công hàm năm 1958 không chỉ sai về pháp lý, mà còn trái với đạo lý. Không ít ý kiến đã chỉ ra rằng Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù Việt Nam Dân chủ Cộng hòa–Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em”, là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp, thể hiện quan điểm ủng hộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến của tình hình phức tạp trên eo biển Đài Loan lúc đó, khi Trung Quốc đang đứng trước hiểm họa cuộc tấn công quân sự của đồng minh của chính quyền Đài Loan. Dù nội dung công hàm vẫn đảm bảo rất thận trọng và chặt chẽ, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc đã cố tình lợi dụng thiện chí của Việt Nam để nhằm phục vụ cho tham vọng lãnh thổ sai trái của mình. Thật là không chính nhân quân tử!
Đây là những lập luận kiểu “cả vú lấp miệng em” của Trung Quốc. Nhưng, những ngụy biện dù tinh vi đến đâu cũng không thể thuyết phục được cộng đồng quốc tế, những lập luận của Trung Quốc đã bị bẻ gãy một cách không mấy khó khăn. Lập luận đã không thuyết phục được ai, Trung Quốc còn “nói một đằng, làm một nẻo”. Không có gì thuyết phục hơn là việc làm trong thực tế và căn cứ vào đó, cộng đồng quốc tế đương nhiên có đủ tỉnh táo và sáng suốt để biết rõ chân lý, lẽ phải thuộc về quốc gia nào.
Bản thân Trung Quốc cũng không thể thuyết phục được chính họ, bởi nếu tự tin vào lý lẽ của mình, họ đã không lẩn tránh việc đưa các vấn đề biển đảo tại Biển Đông ra trước dư luận và công pháp quốc tế, như lâu nay.
Kết lại bài viết, xin nhắc lại điều mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh trước báo chí quốc tế tại Manila: Việt Nam đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế. Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó.
                                                                                                                      Theo Chính phủ

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

ST một bài viết về làng tranh Đông Hồ

Nữ nghệ nhân làng tranh Đông Hồ
Trong số ít nghệ nhân còn tâm huyết giữ nghề ở làng tranh Đông Hồ (xã Song Hồ, Thuận Thành) hiện có một người phụ nữ vẫn cần mẫn nối nghiệp cha ông. Bà là Nguyễn Thị Oanh, người có hơn 40 năm tuổi nghề và là con dâu trưởng của nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam. Thời gian qua, bà Oanh đã góp phần làm phong phú thêm dòng tranh dân gian độc đáo của quê hương bằng nhiều sáng tác mới phản ánh cuộc sống nông thôn thời hiện đại.

Bà Nguyễn Thị Oanh.
 
 
Là người con gái làng tranh, gắn bó với nghề từ thuở ấu thơ, bà Oanh luôn cảm thấy hạnh phúc và tự hào khi được sống qua những năm tháng sôi động của làng nghề. Bà tâm sự: “Gia đình tôi xưa kia cũng làm tranh. Mười tuổi, tôi đã theo mẹ đến hợp tác xã vẽ tranh. Thuở ấy, cả làng cùng vẽ, nghề tranh vẫn còn sôi động lắm chứ không trầm lặng như bây giờ”. Hơn 30 năm về làm dâu nhà cụ Nguyễn Hữu Sam-một gia đình có truyền thống làm tranh nổi tiếng ở làng, bà Oanh đã học hỏi thêm nhiều kỹ thuật về tranh. Khi làng nghề sa sút, người dân đua nhau vứt bỏ bản khắc gỗ để chuyển sang làm hàng mã thì con cháu cụ Sam lại đi xin về với quyết tâm giữ lấy nghề tranh. Tình yêu của bà Oanh với dòng tranh quý cứ lớn dần lên theo năm tháng và qua từng nét bút, tờ tranh.
Nghề làm tranh ở Đông Hồ bây giờ không còn phát triển thịnh vượng như xưa, hầu hết hộ dân trong làng đã chuyển sang làm hàng mã. Mỗi khi hồi nhớ thời kỳ sôi động của làng nghề với cảnh bán buôn nhộn nhịp ở đình tranh, chợ tranh, bà Oanh lại ấp ủ suy nghĩ về những tác phẩm khắc họa lại nét đẹp văn hóa đặc trưng chứa đựng nhiều ký ức, kỷ niệm đẹp của làng mình. Dần dần, nhờ sự dẫn dắt truyền dạy của bố chồng, bà Oanh đã tự sáng tác được một số tác phẩm tranh Đông Hồ về đề tài hiện đại như: “Bán tranh trên đình làng”, “Chợ quê”… Chia sẻ về hai tác phẩm này, bà Oanh kể: Các cụ nhà tôi truyền lại rằng, chợ tranh xưa kia ở đình làng Đông Hồ và hàng năm chỉ họp từ ngày 6 tháng Chạp đến Tết Nguyên Đán. Chợ bán duy nhất một loại hàng là tranh Đông Hồ. Người mua đến từ khắp các tỉnh có thể đi bằng đường bộ hoặc theo đường sông Đuống về. Thuở đó, chợ tranh ngày giáp Tết đông vui rực rỡ lắm. Chỉ vì khách mua mỗi năm một thưa vắng, tranh in ra không có ai mua, người dân bỏ nghề nên chợ tranh cũng không còn họp nữa.
 
Bức tranh vẽ tay khổ rộng “Chùa Bút Tháp” được bà Oanh hoàn thành trong 10 ngày.
Mới đây, tham gia triển lãm làng nghề tại Festival Bắc Ninh lần thứ 2 năm 2014, làng nghề tranh Đông Hồ đã giới thiệu đến công chúng hai bức tranh chùa Bút Tháp và chùa Dâu, kích thước 70x100cm do nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh vẽ tay trên giấy dó khổ rộng. Hai bức tranh này đã được Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Ninh trao Huy chương Vàng cho sản phẩm làng nghề truyền thống tiêu biểu của tỉnh. Nói về ý nghĩa của hai tác phẩm, bà Oanh bảo đã hoàn thiện hai bức tranh này vào đúng dịp Bắc Ninh đón Bằng công nhận di tích Quốc gia đặc biệt chùa Dâu và chùa Bút Tháp với  ý nghĩa “Di sản lồng trong di sản” là sự khẳng định miền đất Bắc Ninh đậm đặc các loại hình di sản văn hóa.
Hơn 10 năm nay, sau khi tiếp nhận xưởng tranh của gia đình, bà Oanh luôn cố gắng để có những bản vẽ độc đáo và giá trị. Theo bà để có một bức tranh đẹp phải có nguyên liệu tốt, từ giấy dó đến màu vẽ. Sau đó, người vẽ phải tái hiện cuộc sống hàng ngày trên tranh thật sinh động, rõ nét. Từng nét vẽ phải chuẩn, màu đẹp, chủ đề tranh đa dạng thì người xem mới có hứng thú.
Không những sản xuất tranh tại nhà, bà Oanh còn tích cực tham gia các cuộc triển lãm làng nghề truyền thống để quảng bá, giới thiệu sản phẩm tranh Đông Hồ ở nhiều tỉnh, thành phố trong nước. Hiện nay, ngoài việc tiếp tục in các mẫu tranh theo đề tài dân gian truyền thống, gia đình bà Oanh cũng đang nỗ lực để ngày càng có nhiều mẫu tranh mới, đẹp phù hợp nhu cầu thị trường.
Bài, ảnh: Việt Thanh

ST Giai thoại về chợ Chì- Quế Võ

“Chị chờ em ở chợ Chì”!
Chẳng rõ tự khi nào, câu cách ngôn “Chị chờ em ở chợ Chì” đã in sâu trong tiềm thức của người dân vùng Chì, xã Bồng Lai, Quế Võ quê tôi. Chỉ biết rằng, xung quanh câu chuyện dân dã ấy là cả những giai thoại về tài ứng đối văn chương gắn liền với những địa danh của xứ sở Bồng Lai. Và để rồi bất kỳ ai có dịp ghé qua cũng đều thấy lưu luyến hẹn một ngày tao ngộ.
Nằm ngay sát triền đê sông Đuống, nơi có những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay, những bãi ngô xanh ngút ngàn được đắp bồi bởi những hạt ngọc phù sa, cũng như bao phiên chợ quê khác, chợ Chì là điểm đến của mớ rau, con cá, những nông sản, vật dụng gắn liền với đời sống của người nông dân thuần phác. Hẹn nhau đến ngày chợ phiên, người quanh vùng đến chợ Chì không chỉ là trao đổi, mua bán, mà còn để gặp gỡ, tâm tình, để cùng nhau thưởng thức món cháo Chì nóng hổi, một đặc sản riêng có của vùng Chì. Và cũng từ nơi đây, giai thoại về “chị chờ em ở chợ Chì” đã được viết lên.
Chuyện xưa kể lại rằng, một hôm có ông quan phủ đi kinh lý ở vùng Thuận Thành. Trên đường đi, vị quan nọ đã dừng chân bên quán nước ven chợ Chì (nay thuộc huyện Quế Võ) để chờ đò qua sông Đuống. Vốn tính hay khoe khoang tài văn chương chữ nghĩa, nên sau khi hỏi chuyện người dân được một lát thì quan thở dài và lên giọng than phiền rằng đi đâu cũng không được gặp văn nhân tài tử. Có lẽ cái mảnh đất chợ Chì này cũng hiếm người đỗ đạt học hành.
Một vài người ngồi đó tỏ ý không bằng lòng, song vì sợ thế của quan nên không tiện phản đối. Biết được sự phật ý ấy, quan muốn chứng minh và cũng là để khoe tài của mình với mọi người, quan vừa cười vừa nói: “Đấy nhé, thử xem thì biết. Ta thử ra một vế đối, xem quanh đây ai đối được không. Nếu đối hay ta thưởng. Câu đối tức cảnh thôi. Đây là chợ Chì phải không? Thế thì ta ra câu đối này: Chị chờ em ở chợ Chì”.
Kể ra thì câu đối cũng khéo, có thể nói là hay. Quan dụng ý dùng tiểu xảo: Chị chờ nói lái là chợ Chì. Lối ra câu đối này rất thường. Cái khó là tìm ra một tên riêng để đối với chợ Chì, mà khi chuyển ra nói lái vẫn có nghĩa. Thành ra cả đám đông nghĩ mãi chẳng có ai đối được. Quan phủ càng đắc ý: “Đấy, ta nói có sai đâu! Câu đối dễ vậy mà các người nghĩ mãi không ra. Nhân tài ở đất này quả là hiếm thực”!
Đến lúc đó, mọi người trong quán càng ức vì sự mỉa mai của viên quan. Nhưng bỗng có tiếng nói từ bên vệ đường vọng vào: “Bẩm quan lớn, con xin đối”.
Nghe vậy, ai nấy đều nhìn ra ngoài. Người kia vừa nói vừa đặt đôi càng xe xuống đất, vụng về bước vào trong quán. Thì ra đó là một anh phu xe quần áo xuềnh xoàng, chiếc nón rách ngoắc bên vai. Anh ta ngồi đấy đã lâu đón khách, đang định kéo xe đi thì nghe tiếng quan ra câu đối nên vào để hưởng ứng câu chuyện văn chương của quan phủ. Mọi người đều ngạc nhiên và nghĩ rằng cái anh chàng phu xe này chắc gì đã biết chữ nhất là một, mà dám vào đối đáp. Quan phủ chừng như cũng khó chịu nên hất hàm nói: “Được, muốn đối thì cứ đối. Nhưng ta bảo trước, đối phải cho đúng phép tắc văn chương chứ không phải nói lảm nhảm vu vơ như các anh nói chuyện với nhau ở đầu đường góc chợ đâu nhé. Sai phép tắc ta nọc cổ ra đánh ngay tức khắc, lúc đó đừng có bảo là ta ác nghiệt đấy”.
Viên quan vừa nói xong, anh phu xe lễ phép: “Dạ, con đâu dám. Con làm nghề phu xe, chỉ xin lấy nghề nghiệp ra mà nói thôi. Quê con bên Gia Lâm, có cái thôn tên rất nôm na dân dã là Keo Táo. Vậy con xin được lấy cái tên ấy mà ghép vào câu. Câu quan lớn ra: Chị chờ em ở chợ Chì. Con xin đối là: Tao kéo mày về Keo Táo”.
Câu đối hay quá! Keo Táo nói lái cũng là tao kéo. Nghe xong, quan phủ như điếng người. Lúc đó, bà con ngồi chung quanh bụm miệng không dám cười to, nhưng tất thảy ai nấy đều hả hê, vì nghe từ chính miệng anh phu xe văng mày tao vào mặt quan mà quan phải chịu phép. Tiếc rằng, mọi người vì mải mê khen câu đối quá hay, quá chỉnh nên chẳng chẳng ai còn để ý đến việc viên quan phủ kia có giữ lời hứa, thưởng cho anh phu xe không…
 Thuở nhỏ, mỗi khi theo bà ra chợ, bà tôi thường bảo “con gái làng này mà không nấu được cháo Chì thì chưa phải là người tháo vát, đảm đang”. Quả vậy, với người quê tôi, món cháo Chì dân dã nhưng chất chứa trong đó là sự mặn mòi của mồ hôi, thấm đẫm của hương đồng gió nội, là sự kết tinh những tinh túy của hạt gạo, của sự khéo léo qua bàn tay lao động của người dân thôn. Nguyên liệu nấu cháo chì gồm gạo tẻ ngâm nước rồi giã nhỏ, gạo nếp xay bột nước rồi lọc khô, sườn lợn, hành hoa, hạt tiêu và gia vị vừa đủ. Sườn lợn đem ninh lấy nước, tiếp đó cho bột gạo tẻ vào khuấy đều. Khi cháo đã nhừ, bột gạo nếp được se nhỏ bằng nửa đầu đũa rồi dùng kéo cắt từng khúc nhỏ (dạng con chì) vào nồi, khuất đều. Hai thứ gạo nếp, tẻ hòa quện tạo nên hương vị đặc trưng khiến bất kỳ ai có dịp thưởng thức đều nhớ mãi khôn nguôi.
Không chỉ nức tiếng với giai thoại “Chị chờ em ở chợ Chì”, với món cháo Chì thấm đượm chất quê, xứ sở Bồng Lai còn được biết đến với nhiều địa danh mà thoạt nghe, không ít người liên tưởng đến “miền cổ tích” như Sa Loan, Vũ Dương, kề bên là Mộ Đạo, Chi Lăng… là ngôi đền Đậu thâm nghiêm cổ kính-nơi thờ Bình Thiên Hiển Đức đại vương, một di tích lịch sử văn hóa, điểm hẹn tín ngưỡng tâm linh của bao người khi có dịp về Bồng Lai. Năm nay, người vùng Chì lại háo hức chờ đón lễ hội đền Đậu (16 - 20-3 Âm lịch), bởi theo tục lệ, đền Đậu cứ 3 năm lại mở hội một lần (vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu). Đắm mình trong các sinh hoạt lễ hội như thi dệt vải, đấu vật, cờ người; cùng các nghi thức tế lễ dân gian, người ta như được thanh thản hơn, cùng ước nguyện cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, để người với người sống tốt với nhau hơn.
Thành Trung

ST Vui một tý : Sự khác nhau giữa vợ và bồ

Sự khác nhau giữa bồ và vợ

 - Thanh niên