Thứ Năm, 22 tháng 2, 2018

Hòa thượng Tố Liên: NGUỒN GỐC TỤC ĐỐT VÀNG MÃ

Hòa thượng Tố Liên: NGUỒN GỐC TỤC ĐỐT VÀNG MÃ

Hòa thượng Tố Liên




Nguyên nhân tục đốt vàng mã


Hòa thượng Tố Liên


Tục chôn người chết nước Tàu về đời thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem chôn, không quan ván, lại cũng không khanh phần mộ chi cả. Đến đời vua Hoàng đế (2679trCN) cho rằng con cháu đối với ông bà cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng đế đến đời Đường Ngu, cái tục lệ chôn cất người chết chỉ có thế thôi.

Nối Nhà Ngu là nhà Hạ (2205 tr CN) người tàu mới bắt đầu dùng đất sét nặn thành mâm bát dùng tre gỗ là nhạc khí như chuông khánh, đàn sáo… để đem theo người chết. Các đồ vật đó được gọi là minh khí, hoặc gọi là quí khí, tức các đồ vật được đem chôn theo cho thần hồn người chết dùng ở âm phủ. Lễ nhạc đối với người chết bắt đầu có từ đó. Rồi đấy đã chế ra đồ dùng cho người chết, tất phải có người hầu hạ người chết, người ta mới lại chế ra người bù nhìn bằng gỗ đem chôn theo người chết.

Đến đời nhà Ân (1765 tr CN) lại không dùng mâm bát đồ đất và nhạc khí bằng tre gỗ để chôn theo người chết nữa. Thay vào đó các đồ tế khí toàn dùng đồ thật chôn theo.

Đời nhà Chu (1122 trước CN) người Tàu đã bắt đầu văn minh: cố nhiên lễ nhạc đối với người chết cũng được ăn nhịp mà tiến bộ. Giữa người chết với người chết đã được người sống phân ra giai cấp sang hẹn trong việc lễ nghi chôn cất. Do vậy t ừ vua đến quan lớn khi chết đi sẽ được dùng cả đồ vật giả theo lệ Nhà Hạ, và đồ vật thật theo lệ nhà Ân để đem chôn theo. Còn hạng sĩ phu tới bình dân khi chết chỉ được chôn t heo độc một thứ đồ giả thôi. Nếu người hèn hạ nào mà dùng nghi lễ ngang với người sang tức khắc phải tội “Tiếm lễ’. Không chỉ thế, dã man,, độc ác nhất người ta còn bịa ra tục Tuẫn Táng. Tức khi vua quan chết từ vợ con đến bộ hạ của các vua quan lớn, đồ yêu quí khi còn sống sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi chết. Việc này ta được biết chép trong sách TẢ TRUYỆN rằng: “Đời vùa Văn Công thứ 6, Vua Tần Mục Công tên là Hiếu nhân chết, ba anh em họ Tứ -Xa là Yểm Tục, Trọng Hành, Chàm Hổ đều bị chôn sống theo Mục công, vì khi Mục công còn sống yêu quí nhất ba anh em nhà họ. Người trong nước tỏ lòng thương tiếc ba anh em họ Tứ Xa là người hiền đức mới làm thơ ra Hoàng Diệu để tỏ ý than vãn mỉa mai. Trong thơ đại ý nói “ba anh em họ Tứ-Xa đều là người hiền đức gấp trăm nghìn lần người khác, trời đất ơi! Sao nỡ đem chôn sốngđể đi theo với người tận số là Mục Công. Nếu ba trăm người như chúng tôi này được chết theo Mục Công để thế mệnh cho ba người chết hiền đức ấy, chúng tôi cũng vui lòng chết thay.

Về sau người ta cũng biết rằng đem người sống chôn theo v ới người chết là vô nhân đạo, mới chế ra người có “sô linh”, sau vì người cỏ không được mỹ thuật, người ta lại dùng người gỗ “Mộc ngẫu” như trước. sách Trang Tử chép rằng: “Vua Mục Vương nhà Chu (1001 tr CN) có người tên là yến sư chế ra người cỏ để chôn theo người chết. Đức Khổng Tử đọc đến chuyện này liền nổi lòng phẫn uất mà thống mạ rằng: “Kẻ nào sinh ta tục chôn người gỗ theo với người chết là bất nhân”. Thầy mạnh tử cũng ác cảm với tục hình nhân thế mệnh mà nguyền một câu độc rằng “ Kẻ nào dùng người bù nhìn là tuyệt tự”.

Đến đời nhà Hán, giới trí thức Nho học cảm động với lời cự tuyệt thống thiết của ngài Khổng Mạnh trong tục lệ dùng người sống chôn theo với người chết, mới bỏ tục lệ TUẪN TÁNG, không dùng người sống chôn theo với người chết nữa, nhưng lại làm ra nhà mồ để cho vợ con tôi tớ, người đã chết ra để ấp mộ. còn các đồ ăn mặc hành dùng của người chết kia khi còn sống dùng những thứ gì khi chết cũng đem chôn theo hết. Ngôi nhà mồ kia muốn cho thêm oai vẻ, người ta lại đục phỗng đá, voi ngựa bài trí chung quanh phần mộ.

Đến giai đoạn này ta bắt đầu thấy nguyên nhân của tục đốt vàng mã giấy. Đời Hán Hoa đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (105), ông Thái Lĩnh bắt đầu lấy vỏ cây dó và giẻ rách, lưới rách đem chế ra giấy, vì đã có giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc quần áo… đều bằng đồ giấy để cúng rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ. Sách: “ Thông giám cương mục” có chép: vì vua Huyền Tôn, mê thuật quỉ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan thái thường bác sĩ để coi việc chế vàng mã dùng khi nhà vua có tế lễ. Chúng ta có thể liệt Vương Dũ là hàng Thuỷ tổ nghề vàng mã.

Đức Phật Thích Ca không dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên. Ngày Rằm tháng bảy là ngày Mục Kiều Liên cứu bà Thanh Đề. Mục Kiều Liên tu chứng được 6 phép thần thông mắt trông thấy thân mẫu là bà Thanh Đề phải đày đoạ ở địa ngục mà ngài không sao cứu nổi mới cầu đến đức Phật. Đức Phật mới dạy rằng “ dầu ông có thần tthông đến đâu chăng nữa cũng không có thể cứu được tội, nghiệp của thân mẫu ông, phải nhờ đến công đức tu hành của chư tăng mới cứu được tội nghiệp cho thân mẫu của ông được. ngày rằm tháng bảy sắp tới đây sẽ là ngày của chư phật hoan hỷ, ngày của chư tăng hành đạo tự tứ. Ông phải chí thành sắm lễ nghi trai đàn đem dâng cúng dàng chư tăng. Các ngài sẽ cầu nguyện cho thân mẫu ông được giải thoát.” Chính ý nghĩa của ngày rằm tháng bảy chỉ có thế thôi, không hơn không kém. Chúng ta có ai thấy Phật dạy đốt vàng mã cúng gia tiên ngày rằm tháng bảy.

Nguyên nhân của việc đốt vàng mã vào ngày rằm tháng bảy là: Triều vua đạt Tôn nhà Đường (762) nhằm lúc Phật giáo cựu thịnh ở Trung Quốc, vị sư tên là Đạo Tăng, muốn cho dân chúng vì ngày rằm tháng bảy mà bồng bột theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của nhân dân vào tâu với vua Đạt Tôn rằng : Rằm tháng bảy là ngày của Diêm Vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ trong việc lễ cúng gia tiên vào ngày rằm tháng bảy nên đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân dùng.

Vua Đạt Tôn đương muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo Tăng liền hạ chiếu cho thiên hạ. Thế nên nhân dân Trung Quốc được dịp thi nhau đốt vàng mã vào ngày 15/7 để kính gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu lại bị chư tăng công kích bài trừ về việc đốt vàng mã vào ngày trọng lễ của Phật giáo làm cái lệ ngày 15/7 không còn chính nghĩa nữa. Phần lớn dân chúng trung hoa ngày đó hầu như tỉnh ngộ cũng nhau bỏ tục đốt vàng mã là cho các nhà chuyên sinh sống về nghề làm vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ người đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã. Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề làm vàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm rồi chết, tin được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn nước uống. Đương khi mọi người họ mạc làng xóm đến viếng thăm đông đúc, Vương Luân với một lũ người đích thân đem trăm thứ đồ mã có cả hình nhân thế mệnh. Sau đó bày đàn cúng các quan thiên phủ địa phủ và nhân phủ. Khi mọi người đang xuýt xoa khấn khứa bỗng trăm nghìn mắt như một, hai năm rõ mười thấy cỗ quan tài rung động lên. Bấy giờ Vương Luân đứng bên đó mở nắp ván quan, để kẻ giả chết kia lò dò ngồi dậy, giả vờ lù đù trông trước trông sau rồi bước ra với điệu bộ như người chết sống lại, rồi thuật rõ chuyện với công chúng rằng: “Các thần thánh trong Tam phủ, tứ phủ vừa nhận được hình nhân thế mạng cho tôi với tiền bạc đồ mã nên mới tha cho ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế” Hiển nhiên trăm nghìn mắt thấy tai nghe, nên công chúng đều nhận thấy là hình nhân có thể thế mạng được thực và trong Tam Phủ, Tứ PHủ cùng ăn đồ lễ vàng mã tằng phúc giảm tội và miền cho sống thêm. Từ đấy các nghề vàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóng vì rằng không những linh hồn các gia tiên dùng vàng mã mà cả Thiên địa quỷ thần trong Tam Tứ Phủ cũng phải tiêu dùng vàng mã nữa và cố nhiên là vàng mã phải đắt hàng. Người Tàu nắm quyền đô hộ VN 1000 năm cho nên phong tục của người Tàu như thế nào, ta cũng dập khuôn đúng như vậy, bất luận hay dở phải trái.

Hoà thượng Tố Liên
(Nxb Đuốc Tuệ1952) - Trang Thanh Hiền đánh máy.

Tiểu sử Hòa Thượng Tố Liên
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Thanh Lai, sinh năm Quý Mão (1903) tại làng Quỳnh Lôi, tổng Kim Liên, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông cũ, nay thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, xuất thân trong một gia đình nho giáo, thân phụ là Nguyễn Văn Định và thân mẫu là Nguyễn Thị Đào.
Ngài xuất gia năm 13 tuổi tại chùa Hương Tích, là đệ tử của Đại sư Thanh Tích (1881-1964). Ngài tính cương trực, chuộng hoạt động, mặc dù được chọn làm Trưởng pháp tử, song quyết tâm ra đi du phương sam học nơi các đạo tràng danh tiếng như chốn tổ Tế Xuyên, Bằng Sở, Vĩnh Nghiêm… Ngài đã từng du học, trụ trì chùa Côn Sơn, Thanh Mai (Hải Dương).

Năm 1935, sau phong trào chấn hưng Phật giáo toàn quốc, sẵn có giới đức trang nghiêm và trí tuệ minh mẫn, Ngài được Hội Việt Nam Phật giáo Bắc kỳ cung thỉnh ra chùa Quán Sứ Hà Nội để chung lo Phật sự.

Ngoài việc phụng sự chung cho đại cuộc Phật giáo, Ngài đã đóng góp rất nhiều cho Phật học đường Quán Sứ như giảng dạy, chủ sám và giới sư các Đại giới đàn, cùng đóng góp tích cực cho những hoạt động về văn hóa và xã hội của Phật giáo miền Bắc.

Sau một thời gian dưỡng bệnh tại Côn Sơn, đến năm 1945 Cách mạng tháng 8 thành công, Hòa thượng lại trở về Quán Sứ. Vận dụng khả năng tri thức và trí tuệ vốn có để ứng dụng Phật sự trong hoàn cảnh mới của đất nước. Ý thức trách nhiệm trước sứ mệnh lịch sử dân tộc và đạo pháp, Ngài khắc phục mọi trở ngại, đề cao chủ trương: Thống nhất Phật giáo, đoàn kết Tăng già. Và cuối cùng nguyện vọng ấy đã đạt được qua việc thành lập Hội Tăng ni Chỉnh lý Bắc phần, tiền thân của Giáo hội Tăng già Bắc Việt do Ngài làm Chủ tịch, đồng thời giữ chức Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Việt Nam. Lúc ấy Ngài mới 47 tuổi (năm 1950).

Tháng 5 năm 1950, Ngài đại diện cho Phật giáo Việt Nam đi dự Hội nghị thành lập Hội Phật giáo Liên hữu thế giới tại Srilanca và đưa Phật giáo Việt Nam tham gia với tư cách sáng lập viên của Hội này, đồng thời được Đại hội suy cử làm Đệ nhất Phó Hội trưởng cùng đại diện Ban chấp hành Hội Liên hữu Phật giáo thế giới, chi bộ tại Việt Nam.

Năm 1951, Ngài là một trong những sáng lập viên Tổng hội Phật giáo Việt Nam, tổ chức thống nhất Phật giáo toàn quốc, gồm cả Tăng già và cư sỹ thuộc Bắc, Trung, Nam để phù hợp với đà tiến chung của Phật giáo thế giới.

Tháng 9 năm 1952, Ngài đi dự Đại hội Phật giáo thế giới tại Nhật, nhằm tăng cường Phật sự trên cơ sở Phật giáo thế giới như phổ biến giáo lý đức Phật trong các tổ chức giáo dục thuộc mỗi quốc gia, từ tiểu học đến đại học, thực hiện các công tác nhân đạo, từ thiện, xã hội, thành lập Đoàn Thanh niên Phật tử thế giới.

Sau khi về nước, Ngài tích cực đi vận động khắp nơi ở miền Trung và miền Nam, gặp gỡ, thảo luận, đàm đạo với các vị lãnh đạo Phật giáo 3 miền, thành lập Giáo hội Tăng già toàn quốc và ngài được cử làm Tổng thư ký.

Về xã hội: Suốt khoảng thời gian từ năm 1945 đến năm 1954, Ngài là vị trụ trì chùa Quán Sứ Hà Nội, một trung tâm của Phật giáo miền Bắc. Ngài đã thành lập các tổ chức cứu trợ đồng bào nạn nhân chiến tranh và các cô nhi viện Quán Sứ, Tế Sinh.

Về văn hóa: Ngài có công cho khắc in rất nhiều bản và phổ biến trong toàn quốc bộ “Việt Nam Phật điển Tùng San”, mong tác phẩm này được lưu truyền hậu thế và không còn bị mai một. Ngài còn là chủ nhiệm và chủ bút tờ nguyệt san “Phương tiện”, hậu thân của báo “Đuốc tuệ”. Ngài chuyên viết các bài giảng phổ thông về Phật học để báo “Đuốc tuệ” ấn hành.

Về tác phẩm: Hòa thượng còn để lại những sáng tác:
- Tấm gương quy y;
- Sự lý lễ tụng;
- Ký sự Phái đoàn Phật giáo Việt Nam đi Ấn Độ và Tích Lan (Srilanca);
- Tịnh Độ sám nguyện - dịch và chú giải.

Về giáo dục: Ngài có công thành lập trường Tiểu học Khuông Việt tại chùa Quán Sứ; trường Trung học Vạn Hạnh tại chùa Hàm Long Hà Nội. Và đặc biệt Ngài để tâm rất nhiều đến việc đào tạo Tăng tài bằng cách gửi các Tăng sỹ Việt Nam đi du học ở nước ngoài, nhằm phát triển kiến thức, trao đổi văn hóa, tăng cường hữu nghị và đào tạo Như Lai sứ giả giữa các quốc gia Phật giáo trên quy mô quốc tế.

Năm 1954, đất nước lại bị chiến tranh chia cắt, Hòa thượng tiếp tục bồi đắp và duy trì các cơ sở Phật giáo đã được xây dựng từ trước.

Đến năm 1958, Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ra đời, kế thừa sự nghiệp của Hòa thượng ở giai đoạn mới. Hòa thượng là một thành viên sáng lập và được suy cử vào Ban Trị sự Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam. Sau đó vì bệnh duyên và tuổi ngày một cao, Ngài phải nghỉ dưỡng bệnh và tĩnh tu ở chùa Quán Sứ, Quỳnh Trân và một số nơi tại miền Bắc.

Tháng 3 năm 1977, Ngài chống thiền trượng đi gặp và đàm đạo cùng chư Tăng tại chùa Quán Sứ để tạ từ. Thế rồi chiều ngày 13 tháng 2 năm Đinh Tỵ (tức ngày 01/04/1977), Ngài đã viên tịch tại chùa Quán Sứ, trụ thế 75 năm và hoằng pháp độ sinh 45 năm. Bảo tháp của Ngài tọa lạc tại chùa Sùng Phúc, thôn Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, bảo hiệu là Chân Không Tháp.Sự nghiệp và đạo hạnh của Hòa thượng đã đi vào lịch sử Phật giáo Việt Nam, với công lao cao cả trong cuộc chấn hưng Phật giáo n][cs nhà và đưa đạo Phật Việt Nam góp mặt với Phật giáo thế giới. Hòa thượng là tấm gương soi sáng cho các thế hệ Tăng Ni, Phật tử cống hiến trọn đời cho Đạo pháp - Dân tộc.



12 nhận xét :

  1. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT !
    Con sẽ thực hiện LỄ VU LAN KHÔNG ĐỐT VÀNG MÃ.
    Trả lời
  2. Tôi cũng sẽ không đốt vàng mã không chỉ dịp này mà từ nay về sau. Tại sao ta lại học bọnn bành trướng tập tục xấu này?
    Trả lời
  3. Đề nghị những ai tham gia phong trào bài Trung quốc, hãy dừng ngay việc đốt vàng mã và vận động người khác không theo hủ tục lạc hậu này!
    Trả lời
  4. Kính mong hoà thượng tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu phát hiện ra những tập tục có nguồn gốc từ giặc tàu để bài trừ, vì đó là những thứ tàu dùng để đồng hoá dân ta đó.
    Cám ơn hoà thượng Tố Liên.
    Trả lời
  5. Cảm ơn anh Diện đã đưa ra đề tài này . Cảm ơn Hòa thượng đã nghiên cứu.Tôi hoàn toàn ủng hộ ý kiến này tránh lãng phí và đăc biệt sau khi đốt còn gói tro lại ném xuống hồ công viên rất mất vệ sinh và phản cảm
    Trả lời
  6. Nam mô a di đà phật!
    Từ nay chúng ta sẽ cùng bài trừ các tệ nạn mê tín xuất phát từ Trung Quốc ra khỏi đời sống nước ta. Việc này phải hợp sức nhiều người mới làm được, đặc biệt là giới trí thức và trí thức tôn giáo Việt Nam.
    Cái có thể làm ngay là các bài văn cúng khấn phải hành văn theo lối tiếng Việt chứ không phải suốt ngày đọc như vẹt : Việt Nam quốc, Hà Nam tỉnh, Thanh Hóa tỉnh, Đồng Nai tỉnh,...nghe mà sặc mùi Hán văn.
    A di đà phật!
    Trả lời
  7. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Trả lời
  8. Sư thầy uyên bác mà diễn đạt cũng thật mạch lạc. Một bài viết thế này lẽ ra được đưa vào các trường Phật học, đưa vào thành luật của nhà chùa từ lâu rồi chứ !
    Trả lời
  9. sửa morat đi anh, nhà Đường làm quái có vua Đạt Tôn, Đại Tôn mới đúng. Mà cả cách viết hoa nữa, tùy tiện quá đáng.
    Trả lời
  10. Nam Mô A Di Đà Phật!
    Trả lời
  11. Con người quen sống với lửa ấm.Ngồi trước linh cữu người đã khuất ,con người liền nghĩ đến thứ gì đó có ánh sáng xua tan bóng tối hãi hùng,thứ gì đó mang lại sự ấm cúng,xua đi sự lạnh lẽo của cái chết và thứ gì đó át mùi linh khí ,thứ đó chính là những tập tiền âm phủ đốt từng tờ,là những nén nhang thơm,nến sáng lung linh....thế thôi,chết rồi ảh ai nhận được gì,đốt vàng mã nhiều chỉ người làm vàng mã nhận được vàng thật mà thôi.
    Trả lời
  12. Những bài chuyên khảo rất bổ ích . Rất cám ơn tác giả và chú Tễu !
    Trả lời

Mở tiết kiệm, đóng bảo hiểm cho con từ tiền lì xì

Mở tiết kiệm, đóng bảo hiểm cho con từ tiền lì xì


Dân trí Thay vì đút lợn hoặc bố mẹ “tịch thu”, nhiều gia đình chọn cách sử dụng tiền lì xì cho con bằng việc đóng bảo hiểm hoặc mở tài khoản tiết kiệm.
 >> Trẻ em Sài Gòn tìm hiểu về Tết xưa

Mở tiết kiệm, đóng bảo hiểm
Lì xì đầu năm là một tục lệ từ lâu. Tiền lì xì ít nhiều không quan trọng, chủ yếu là món quà tinh thần, như một biểu tượng tốt đẹp khiến người nhận tin rằng, tất cả những ngày còn lại trong năm đều may mắn và tài lộc.
Thế nhưng, có vẻ như người lớn chúng ta đã sai đâu đó trong cách giáo dục, hướng dẫn cho con trẻ về phong tục tốt đẹp này, khiến lì xì trong nhiều trường hợp mất đi ý nghĩa tốt đẹp của nó.
Một khảo sát nhỏ của PV trên một trang mạng dành cho các bà mẹ, 80% số bố mẹ được hỏi đều trả lời chọn cách sử dụng tiền lì xì ý nghĩa hơn bằng cách mở tài khoản cho con hoặc đóng bảo hiểm.
Chị Thu Hiền (ngõ Xã Đàn, Đống Đa, Hà Nội) chia sẻ: Mình gom tiền mừng tuổi để gửi tiết kiệm cho con. Hiện nay ở một số ngân hàng có dịch vụ mở tài khoản tiết kiệm đến năm con 18 tuổi.
Các mẹ có 1 triệu đồng đã có thể mở tài khoản được cho con. Mỗi tháng, có bao nhiêu gửi bấy nhiêu, gửi trực tiếp hoặc online đều được nhưng mình chọn gửi online cho tiện.
“Các bé lớn không được mừng tuổi đã đành, các bạn bé, nếu tiết kiệm từ nhỏ đến lớp 12 cũng được kha khá”, chị Hiền nói.

Nhiều gia đình chọn mở tài khoản tiết kiệm hoặc đóng bảo hiểm từ tiền lì xì của con. (ảnh minh họa)
Nhiều gia đình chọn mở tài khoản tiết kiệm hoặc đóng bảo hiểm từ tiền lì xì của con. (ảnh minh họa)
Một phụ huynh ở Hà Giang cho hay: "Mọi năm em đều tiêu hết, hoặc mua gì đấy. Năm nay, em quyết đút lợn cho con để dành tiền đi học nên con đồng ý."
Chị Nguyễn Linh Hương (Hà Nội) cũng cho biết: “Từ khi con 4 tuổi, em đã đưa phương án cho bạn chọn, một là đút lợn thì con đút 10 nghìn đồng. Sau này con cũng chỉ được 10 nghìn. Thứ hai, là con mở tài khoản tiết kiệm ở ngân hàng, sau 1 năm con sẽ có nhiều hơn thế. Con chọn thế nào? Mình cũng nói qua cho bạn cách thức hoạt động của ngân hàng. Từ đó tới giờ, cứ có tiền mừng tuổi là bạn tự giác đưa bố để vào sổ tài khoản và con rất vui vẻ”.
Chị Tuyết Minh (khu đô thị Linh Đàm, Hà Nội) lại chọn cách đóng bảo hiểm cho cả nhà từ tiền lì xì: “Em đóng bảo hiểm cho cả nhà. Vừa ý nghĩa vừa tác dụng lâu dài”. Giải pháp dùng tiền lì xì để đóng bảo hiểm cũng được nhiều mẹ khác lựa chọn.
Dạy con tiêu tiền lì xì hợp lý
Đưa ra kinh nghiệm về điều này, TS Vũ Thu Hương (Khoa Tiểu học, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội) từng chia sẻ, hiện nhiều gia đình chưa dạy con cách nhận và sử dụng tiền lì xì đúng cách.
Cha mẹ cần dạy trước con cách cảm ơn khi nhận phong bao lì xì. Những câu cảm ơn lễ phép của trẻ sẽ khiến tất cả mọi người cảm thấy hài lòng.
Hành động xấu chắc chắn sẽ làm cho khách cảm thấy khó chịu. Cha mẹ có thể dặn con là những đồng tiền may mắn này dùng để xua đuổi quỷ dữ khi con ngủ. Vì thế, con tuyệt đối không được xé bọc lì xì ra.

Cha mẹ cần dạy trước con cách cảm ơn khi nhận phong bao lì xì. (ảnh minh họa)
Cha mẹ cần dạy trước con cách cảm ơn khi nhận phong bao lì xì. (ảnh minh họa)
Con có thể gửi mẹ cầm giúp hoặc cha mẹ chuẩn bị cho con một chiếc túi nhỏ để đựng phong bao lì xì. Khi trở về nhà, con cần cho tất cả những phong bao đó vào trong một chiếc túi và đặt dưới gối ngủ của con.
Đặc biệt, khi Tết đã thực sự kết thúc, thường là lúc hạ cây nêu hoặc gia đình làm lễ hóa vàng, các cha mẹ cần giúp con mở chiếc túi đựng lì xì ra và thu gom số tiền lì xì được nhận.
Nếu các con đã đến tuổi sử dụng tiền, thường là lớp 3 trở lên, cha mẹ cần dạy con cách sử dụng hợp lý số tiền lì xì đó.
Cách thức đơn giản là yêu cầu con lên kế hoạch sử dụng số tiền đó, tham khảo trước giá cả, lập bảng chi phí cụ thể. Sau khi bố mẹ đã kiểm tra về tính hữu ích, mức giá tiền hợp lý, cách mua đồ, cách sử dụng…. mà thấy phù hợp thì có thể cho con chi tiêu số tiền đó.
Cha mẹ có thể đưa con đi đến cửa hàng, cho con tự chọn đồ và tự trả tiền. Việc này sẽ giúp con hiểu thêm về giá trị đồng tiền và cách sử dụng.
Mỹ Hà

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018

Cách phân biệt Chùa, Đình, Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, Am

Cách phân biệt Chùa, Đình, Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, Am

Không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am...
Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,… Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó.
Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó,…
Vì vậy, chúng tôi đã biên tập bài viết này để giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó.
Chùa là gì?
Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo.
Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư.
Đình là gì?
Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam.
Cách phân biệt Chùa, Đình, Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, Am - Ảnh 1
Đình làng Đình Bảng.
Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới.
Đền là gì?
Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian.
Cách phân biệt Chùa, Đình, Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, Am - Ảnh 2
Đền Kiếp Bạc.
Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc.
Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian.
Miếu là gì?
Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng.
Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ.
Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị.
Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu (cách gọi của người miền Nam)
Nghè là gì?
Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng – Hải Dương).
Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh.
Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII.
Điện thờ là gì?
Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác.
Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,…
Phủ là gì?
Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật).
Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII.
Quán là gì?
Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh.
Cách phân biệt Chùa, Đình, Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, Am - Ảnh 3
Bích Câu đạo quán.
Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa.
Đó là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân), Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc Hoàng).
Có thể kể tới các quán điển hình như: Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). “Thăng Long Tứ quán” bao gồm: Chân Vũ quán (tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh); Huyền Thiên cổ quán (nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai); Đồng Thiên quán (nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành); Đế Thích quán (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên).
Am là gì?
Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia.
Với người Việt, Am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am.
Theo Hành trình tâm linh

Thứ Ba, 13 tháng 2, 2018

Phạm Quỳnh: TÂM LÝ NGÀY TẾT

Phạm Quỳnh: TÂM LÝ NGÀY TẾT

Tâm lý ngày Tết

Phạm Quỳnh
Lời dẫn của Phạm Tôn: Bài này Phạm Quỳnh viết bằng tiếng Pháp nhan đềPsychologie du Tet, đăng trên phần Pháp văn của Tạp chí Nam Phong số 149-1924, sau này có in trong Tiểu luận 1922-1932 (Essais 1922-1932) và đã được nhà văn Nguyên Ngọc dịch rất đạt ra tiếng ta, xuất bản năm 2007. Nhưng ở đây, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc bản dịch của Tiến sĩ Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh, và là tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong để tạo thêm một nét hứng thú trong ngày Tết này. 
Những dịp để cho cả một dân tộc cùng nhau hướng về một tình cảm, một tư tưởng, để cùng nhau rung động…thật là hiếm có. Thường phải có những sự xẩy ra khá quan trọng, có ảnh hưởng đến tính mạng cả một đoàn thể, để ai nấy đều phải để hết tâm trí vào.

Dân Việt Nam ta có cái may mắn, cái đặc ân là có một dịp vui chung cho tất cả, dịp ấy cứ đều đặn mỗi năm một lần vào ngày đầu xuân năm mới. Về dịp này tất cả đàn con đất Việt, từ người giàu cho đến kẻ nghèo, từ người tiên tiến cho đến kẻ thủ cựu đều một lòng một dạ, cùng nhau hớn hở đón chúa xuân, trong mấy ngày lễ long trọng, trang nghiêm mà cũng rộn ràng náo nhiệt biết bao! Ngày ấy là ngày TẾT.

“TẾT”, chữ màu nhiệm thay! Như đã chứa chất biết bao niềm vui mừng của cả một dân tộc vô tư vui vẻ, cứ mỗi năm, đến kỳ xuân tới là quên cả hết thẩy những nỗi lo lắng khó khăn của năm cũ để sẵn sàng hoan hỷ bước vào năm mới với chứa chan hy vọng.

Vậy thời ý nghĩa của ngày TẾT, của cái thực thể huyền bí ấy mà người ta sùng bái như một vị thần thánh có sức mạnh đến nỗi có thể khiến cho cả một dân tộc, trong khoảng mấy ngày tròn, đã cùng một tâm hồn, cùng một tình cảm, mà nhất là cùng một hy vọng tin tưởng ở ngày mai, hy vọng và tin tưởng mà nhiều khi họ rất cần phải có, để đương đầu với một cuộc đời vất vả bấp bênh…

TẾT không phải chỉ là ngày đầu năm mà thôi, vì nếu kể cả những ngày sửa soạn linh đình trước và những cuộc vui đùa giải trí sau, thì TẾT ít ra cũng phải kể tất cả là ba tuần. Nhưng dù sao tâm trạng của người ta mà ngày TẾT đã gây nên chưa dễ đã xóa nhòa trong chốc lát, và ta cũng nên thử nghiên cứu xem, để tìm hiểu giá trị đặc biệt của ngày lễ long trọng ấy.

TẾT không phải hoàn toàn không có nghĩa lý, mà lại còn bao trùm cả một “triết lý”.

Trong một năm bốn mùa liên tiếp nối nhau và đó là một hiện tượng tự nhiên rất quan trọng cho một dân tộc nông nghiệp. Theo như thuyết “Vũ trụ khai tịch” xưa, khoảng thời gian đông qua xuân tới là đánh dấu một thời kỳ hoàn toàn đổi mới, người và vạn vật thiên nhiên như sống lại và cùng nhau thông cảm trước sự đổi mới vui tươi để hăng hái đón mừng xuân mới. Trong mấy ngày cổ truyền ấy, con người ta phải hoàn toàn đổi mới, lột hết những gì cổ hủ của con người cũ đi mà tự tạo nên một tâm hồn mới mẻ; phải đuổi hết những tư tưởng yếm thế, phải tạo ra những ý vui, chỉ nói những lời ngọt ngào dễ thương, quên hết những hận thù, để đối với ai, – dù là kẻ thù chăng nữa- cũng một lòng khoan hồng bác ái. Như thế là ta đã góp phần vào sự gây dựng vũ trụ điều hòa, và do đó gây dựng hạnh phúc của xã hội và đồng thời hạnh phúc của chính mình. Những lời nặng nhẹ, những cử chỉ không hợp phép, những sự buồn bực, bất bình thổ lộ ra trong những ngày TẾT không những trái với lễ độ cổ truyền và rất kỵ trong những ngày tốt lành nhất của một năm ấy mà lại là một sự phản bội đối với vạn vật thiên nhiên, và như thế kẻ đã phạm tội ấy sẽ bị tai họa.

Dị đoan lại khiến cho người ta tin rằng tất cả những gì xẩy ra trong mấy ngày đầu năm đều có ảnh hưởng huyền bí, hay, dở đến cả một năm. Vì vậy sáng sớm ngày đầu năm, người khách đầu tiên đến nhà có thể coi như đã đem đến cho gia đình ấy hạnh phúc hay tai họa, tùy theo nếu người ấy là một người sướng hay khổ, có chức phận trong xã hội hay không, giàu hay nghèo, con cháu đông đủ hay hiếm hoi, tính nết tốt hay xấu, nhiều may mắn hay không…Một người có tang vừa đau khổ, một người rủi ro vừa bị thất bại trong công việc làm ăn…chớ nên đến thăm ai trong buổi sáng đầu năm vì sợ có thể sẽ đem lại rủi ro đến cho người ta. Để khỏi phải có những sự bất ngờ chẳng hay, người khách đầu tiên đến “xông đất” mỗi nhà, nghĩa là người khách có thể coi như sẽ đem lại may mắn hay rủi ro đến cho gia đình, đều được chủ nhà sắp đặt trước. Người ấy sẽ được lựa trong những bà con bè bạn thân thiết và là người được coi như có hạnh phúc đầy đủ, vừa giàu sang phú quí lại con cháu đầy đàn, để sáng sớm đầu năm làm “sứ giả” đem Hạnh phúc đến cho cả gia đình.

HẠNH PHÚC! Hạnh phúc là cái mộng đẹp mà hết thảy chúng ta ai cũng mong ước. Ở nước Nam này, mỗi năm xuân tới, người ta kêu gọi, cầu khẩn, tìm kiếm Hạnh phúc bằng đủ mọi cách. Họ ca ngợi Hạnh phúc trên những câu đối đỏ chói treo trên tường bên những cánh cửa nhà. Màu đỏ là màu tượng trưng điểm lành, điểm tốt, vì vậy từ sân nhà cho đến trên bàn thờ, mỗi gia đình, chỗ nào cũng rải rác đầy xác pháo đỏ cùng những cánh hoa đào. Người ta cũng thế, ai cũng có vẻ tạo ra một vẻ mặt sung sướng, vui tươi, niềm nở như để dễ quyến rủ cái Hạnh phúc nó như cái bóng phảng phất khó lòng mà nắm được, tựa hồ như con chim hoàng oanh của nhà thi sĩ nọ, ríu rít hót ca trên cành liễu này rồi phút chốc đã lại bay qua cành liễu khác. Thật không cái gì cảm động bằng cái lòng nguyện vọng thiết tha của cả một dân tộc, nguyện vọng đến được một đời sống thanh nhàn hạnh phúc, mà tất cả đều mơ ước, nhưng dễ mấy ai đã tới được!

Vậy thì TẾT là gì? Là lời kêu thiết tha của cả đàn dân Việt trong dịp vạn vật đổi mới, nói lên lòng tin tưởng ở năm mới sẽ đến, và sự khát khao một đời sống thảnh thơi sung sướng.

Ngày TẾT lại còn có một ý nghĩa khác nữa. Ngày TẾT còn là sự thánh hóa, sự ca tụng, tán dương chủ nghĩa gia tộc và sự thờ phượng tổ tiên. Với tư cách này TẾT có thể coi như một thiết lập có liên hệ mật thiết với sự thành lập gia tộc ở nước Việt Nam ta. Mấy ngày TẾT chính là những ngày mà cả đại gia đình đông đủ sống quây quần tụ họp làm một. Gia đình Việt Nam thường có cha mẹ, anh chị em, hay là cả ông bà cô chú, có khi lại có cả cụ nội ngoại ở cùng cả một nhà. Những gia đình có con cháu đi làm xa trong cả năm, đến kỳ TẾT đều trở về đông đủ dưới mái nhà của tổ tiên. Những hôm đó trên bàn thờ trang hoàng rực rỡ, những bài vị ghi tên tuổi các vị tổ tiên đã mất, đều được mở ra chưng bày, những đèn hương sắp lên nghi ngút, những đồ mã tượng trưng nén vàng nén bạc để cung hiến tổ tiên được chất thành từng đống.

Vì TẾT không phải chỉ là ngày vui cho người sống mà còn cả cho người chết nữa. Chính trong những ngày TẾT các vị tổ tiên ông bà đều về sống chung với gia đình con cháu. Hôm ba mươi Tết, mỗi gia đình đều có một lễ thỉnh mời tổ tiên về. Rồi cứ mỗi ngày hai lần, dâng lễ cúng cơm cùng nước trà bánh trái. Đến ngày thứ ba là ngày cúng tiễn biệt, để rồi hồn của tổ tiên lại trở về nơi chín suối, mang theo lời chúc tụng cùng tâm sự của con cháu mà các ngài vừa được chung sống trong mấy ngày Tết vừa qua, và tuy từ biệt ra về, tổ tiên vẫn không quên phù hộ và che chở cho con cháu bằng một cách huyền bí.

Trong mấy ngày Tết, người sống và người chết lẫn lộn chung sống dưới mái gia đình. Bà con bạn bè đến thăm viếng nhau ngày Tết, trước hết không quên đến kính cẩn lễ trước bàn thờ tổ tiên rồi mới cùng nhau chúc tụng năm mới.

Tết với những tượng trưng và nghi lễ của ngày ấy đã ghi vào đời sống của chúng ta một giai đoạn vui sướng, mà giai đoạn ấy chúng ta có cái may mắn là cứ mỗi năm ta lại được sống lại một lần. Sống mấy ngày hoan hỷ vui chung cả quốc dân, tự thấy mình đã cũng chia sẻ sự vui sướng ấy và cùng thông cảm với tất những người đồng chung về một ý thức, một tư tưởng, đó là niềm vui không phải nhỏ; niềm vui ấy, chính ngày Tết đã đem lại cho ta, và ta sẽ không bao giờ quên ơn.

Riêng về phần tôi, mõi lần ngó về dĩ vãng, nhớ lại những ngày thơ ấu, những năm của tuổi trẻ đã qua, ngày Tết đã để lại cho tôi toàn những kỷ niệm êm đềm.

Một ngày kia nếu phải bỏ phiếu để bãi bỏ cái ngày lễ ấy đi, thì dù ai biện lẽ phải gì hay ho tốt đẹp đến đâu, tôi cũng bỏ phiếu chống sự bãi bỏ ấy, mặc dầu họ có thể cho tôi là một anh thủ cựu bướng bỉnh hay liều lĩnh.

Thượng Chi (Phạm Quỳnh)