ĐẤT VÀ NGƯỜI ĐẠI
MÃO-TRUNG THÔN ( 1 )
Lê Nho Lãng
Lời người biên tập : Chuyên mục ĐẤT VÀ NGƯỜI ĐẠI MÃO-TRUNG THÔN đã ra đời, được đánh số từng kỳ, là
chuyên mục giới thiệu về những địa danh, những phong tục tập quán… và những con
người cụ thể của quê hương làng Giữa, mong truyền lại cho thế hệ trẻ hôm
nay hiểu biết thêm về quê hương của mình, tự hào về mảnh đất và con người của
quê mình.
Mong
sao niềm tự hào ấy là niềm tự hào chính đáng, và như câu xưa các cụ thường nói
“ Con hơn cha là nhà có phúc”; tuổi trẻ càng phải phấn đấu để quê hương,
gia đình mình ngày càng tốt hơn, đẹp hơn…
Để chuyên mục phong phú và hấp dẫn , có tác dụng giáo dục cao, chúng tôi đề nghị quý độc giả tham gia gửi bài viết, hình ảnh về cho Ban biên tập. Như một tác giả trong làng đã có câu thơ “ Trung Thôn kim cổ nhân khiêm nhượng” ( Người Đại Mão - Trung Thôn từ xưa tới nay luôn khiêm tốn), bài viết cần chân thực, chính xác; không tô hồng, động viên quá sự thực.
Chúng tôi rất mong nhận được bài viết của các
cụ cao niên nói về Làng Giữa ngày xưa, vì con cháu ngày nay đâu có biết ngày
xưa và tư liệu khó tìm. Cũng mong nhận được những bài viết về đất và người Đại
Mão ngày nay của tất cả mọi người, nhất là các thầy cô giáo trong làng dạy học
ở các loại hình trường học gần xa, vì các thầy cô có điều kiện tiếp cận với
giới trẻ và các nguồn thông tin thuận lợi hơn...
--------------------------------------
ĐẤT VÀ NGƯỜI ĐẠI MÃO -TRUNG THÔN kỳ 1 xin trân trọng giới thiệu bài viết của cụ Lê Nho
Lãng ( 81 tuổi, ở xóm 2 Đại Mão) ghi lại những kỷ niệm về một số địa danh trước
đây của làng ; giới thiệu qua một số người con tiêu biểu quê nhà để các em, các
cháu ít tuổi được biết.
Biết để học tập, phát huy truyền
thống người xưa; để nhà mình, quê mình
ngày càng đổi mới tươi đẹp hơn.
Chuyên mục mong được tiếp tục đăng các bài viết, hình ảnh của quý độc giả.
%%%%%%%%%%%%%%%
TIẾP NỐI NGƯỜI XƯA
Đại Mão là một làng cổ xưa, có tên
nôm là làng Giữa, còn gọi là Trung Thôn.
Tên của địa danh này có từ bao giờ, không ai khẳng định được.
Khi về công tác tại Thuận Thành nghiên cứu
về di tích Luy Lâu, Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng, có nói về làng Giữa : “ Ở
Luy Lâu có làng Đại Mão, từ xưa là đại doanh của vương triều Hai Bà Trưng”.
![]() |
Đường từ đê Đuống vào làng Đại Mão |
Ở Đại
Mão hiện vẫn còn nhiều di tích, địa danh còn lại, như ở khu Đống Sến ( giờ đã
san bằng) có các lăng mộ đời Hán; có khu đất gọi là Đường Cầu (tương truyền khi
quân của hai Bà xuất quân thường làm lễ cầu thắng giặc). Những địa danh người
già còn nhớ như Tiền Dinh, Hậu Dinh,Quán Dịch ( nơi nghỉ của các sứ thần vào
yết kiến vua), Quán Kê ( nơi các quan xem thiên văn bói quẻ xem điềm lành dữ),
Quán Tháp ( nơi xuất trình giấy tờ và lưu trữ hồ sơ). Có gò đua ngựa ( Đấu Mã )
có chốn bình văn; có bãi vật, bàn cờ và nhiều dấu tích tiền nhân để lại.
Trên cơ sở khoa học, nhờ vào các di tích,
văn bia và thư tịch cổ, chúng ta có thể tin rằng Đại Mão là một làng cổ có từ
lâu; ít nhất từ thời nhà Trần, chưa dám nói lâu hơn. Lúc đó, làng đã có một người
họ Trịnh – cụ Trịnh Đức Mại- ra làm quan và làm đến chức Đại Tư đồ Trấn Quốc
công. Địa danh Đại Mão đã gắn với danh nhân ấy trên các thư tịch cổ.
Từ lúc ban đầu có tên Làng Giữa, rồi Đại Mão,
Đại Mão Trung, Trung Thôn, sau đó, sử sách và các văn bia từ thời nhà Lê về sau
này đều có ghi địa danh Đại Mão cùng với
những con người cụ thể như Nguyễn Đình Khuê,Trịnh Đức Vận,Lê Doãn Giản,Lê Doãn
Thân , Lê Quýnh…
***
Thế đất của làng, theo phong thủy, từ xa xưa đã được các cụ cho là một vùng đất đẹp.
Có Long triều ( Rồng chầu), Mã bái ( Ngựa bái); có đường Bút, đường Bảng, đường
Cầu; có gò Trống, giải Cờ; có Văn Chỉ ( Văn Miếu cấp tổng ) nêu tên các bậc khoa bảng của quê hương; có
Trường, có Chợ; đường trước sông sau, cửi canh rộng mở. Nhân tài hội tụ ở đây như hoa Chi, hoa Lan.
Được người dân các vùng
xung quanh vinh danh, gọi là đất Văn Hiến từ lâu
, Đại Mão có nhiều nếp
thuần phong, mỹ tục. Từ xưa đã có một ngôi Đình vào loại to đẹp nhất
vùng. Chùa làng có tên là Sùng Ân tự, cũng là một ngôi chùa cổ. Ngày nay Đình,
Chùa được tôn tạo, tu bổ là những công trình kiến trúc gắn bó với người dân từ
xưa đến nay.
***
Đình Đại Mão xưa là một ngôi đình to đẹp, bề thế được
đặt ở một nơi có Rồng chầu, Ngựa bái ngay trước giữa làng. Đình làng là nơi thờ
Lạc Thị Đệ Nhị Đại Vương ( cùng với thôn Thụy Mão xã Mão Điền ngày nay thờ Lạc
Thị Đệ Nhất Đại Vương; thôn Đông Miếu thờ Lạc Thị Đệ Tam Đại Vương ) là những
vị thiên thần gắn với truyền thuyết Lạc Long Quân mở nước.
Một góc Đình Làng |
Đình Làng có các bức hoành phi LONG ĐỨC CHÍNH TRUNG, LẠC LONG VIỆT TỔ và nhiều
đôi câu đối, đáng kể đến là các câu:
Thiên đản thánh thần khai bách việt
Địa xưng văn hiến ngưỡng tam linh
Tạm dịch : Trời nảy thánh
thần mở dòng Bách Việt
Đất gọi văn hiến, ơn đức tam linh
Tráng tai đế vương cư, hữu kỳ, hữu cổ, hữu mã bái long triều, diệc
thiên địa hảo để phong thủy
Uất nhiên anh tuấn vực, vi
cơ, vi quan, vi lương đống thạch trụ, tự hương đảng lập hồ triều đình
Tạm dịch : Mạnh đẹp thay chỗ ở đấng đế
vương, án có cờ, có trống, có ngựa bái rồng chầu, thực trời đất tạo thành phong
thủy
Yên vui
vậy,quê hương bậc anh tuấn; người làm thợ, người làm quan, làm xà cao cột vững,
từ làng xóm lập nên triều đình.
****
Đại Mão trung linh dục tú
nhân xuất đa hiền
A-Thời phong kiến đến đầu thế kỷ XX
Khoảng năm 1941,1942 tôi không nhớ chắc
lắm, lúc đó tôi khoảng 9,10 tuổi biết đi chăn trâu bò, đã được biết: Quan tổng đốc
tỉnh Bắc Ninh Phan Kế Toại ( sau này là Phó Thủ tướng nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa) khi đi thị sát huyện Thuận Thành, có về quê hương Đại Mão.
Nhận xét về miền quê này, Cụ nói: “ Đại Mão trung
linh dục tú nhân xuất đa hiền” nghĩa là “ Khí thiêng tụ ở nơi đây nên
làng Đại mão sinh ra nhiều bậc khoa bảng nổi danh qua các thời đại”.
Ngẫm lại, đúng như cụ Phan nói, Đại Mão là quê
hương của nhiều bậc anh tài, chúng ta hãy kể qua một số các cụ, từ những thời
Trần, Lê, Mạc, Nguyễn…
Trên đường vào Làng - Chợ Giữa |
+Cụ Trịnh Đức Mại là một trong các cụ tổ của họ
Trịnh ở Đại Mão hiện nay. Nhà thờ họ Trịnh còn giữ được gia phả cho biết,
cụ làm quan triều Trần đến chức “Đại Tư
Đồ Trấn Quốc Công”. Sinh thời cụ là người văn võ toàn tài. Vào cuối thời Trần,
gian thần lộng hành, thù trong giặc ngoài, thế nước lâm nguy. Cụ đã giúp Vua
trấn ngoại trừ gian, giữ yên xã tắc. Được vua yêu mến gả công chúa cho, khi qua
đời vua cho làm quốc tang như các bậc vương giả.
Triều
đình về viếng, văn tế có đoạn:
“Tướng quân thiết
thạch anh tư,
Can
thành lệnh khí.
Hậu
liên bôn tẩu,
Tố
giản dư tri,
Nguy kiệm trì khu,
Bất
cô quốc khánh.
Sương thiên khái tử
Trẫm thập liên kỳ
Định vị thù
Đại thụ chi doanh hỗ.
Nhi thiên nhất lão
Tích ghi cự đáo
Chương thành chi ảnh
Ô hô! Sương thiên ba hàn
Thần kiếm khứ hy
Vi quán đẩu chi
Quang huy, giang sơn thiên viễn mộ
Vân phi chu trướng
Văn chung chi cảm
Lược dịch: Nhớ Tướng quân/ cứng cỏi tài ba/ vững vàng
oai dũng/ sau trước xông pha/ giản dị biết nhiều/vượt bao gian khó chẳng phụ
lòng vua.
Tiếc thay
một cây đại thụ/ một bức tường thành/ tuổi 70 chưa được chúc mừng đã nghiêng
ngửa/ trời sao gây nỗi?
Than ôi!
Chiều tà sóng lặng thần kiếm đi vào cõi hiển vi ánh đẩu/ soi núi cao trời
thẳm,mây bay buồn bã/ nghe tiếng chiêng thương cảm tiễn người đi.
( Tham khảo : Gia phả họ Trịnh và bản dịch của cụ Trần Dực năm 1993)
+ Cụ Nguyễn Đình Khuê, (cụ là con rể Trạng nguyên Nguyễn Lượng Thái), sinh năm 1533, năm
36 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa Mậu Thìn niên hiệu Sùng Khang 3 (1568)
đời vua Mạc Mậu Hợp, làm quan đến chức Hiến sát sứ. Nhà thờ họ Nguyễn Đình bảo
lưu đôi câu đối:
“Tam giáp khoa danh tiên hữu khải,
ức niên hương hỏa hậu kỳ xương”,
Tạm dịch nghĩa: Khai khoa Tiến sĩ ở làng cụ là người đầu
tiên/Nghìn năm hương hỏa cháu con ngày càng thịnh vượng.
+ Cụ Trịnh
Đức Vận sinh năm 1646, năm 38 tuổi đỗ Đệ tam giáp
đồng tiến sĩ khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa 4 (1683) đời vua Lê Hy Tông, làm
quan đến chức Giám sát ngự sử.
+ Cụ Lê
Doãn Chất , là cụ tổ 4
đời của tiến sĩ Lê Doãn Giản, Lê doãn Thân làm quan đến chức Đông các đại học
sĩ. làm quan thời Hậu Lê, giữ chức nghi điển ( chuyên coi về việc thi cử,soạn
đề và làm chánh chủ khảo các kỳ thi hương; giám khảo các kỳ thi hội. Học trò
của cụ có đến hơn 50 cử nhân, trong đó có nhiều người thành đạt .
+ Cụ Lê Nho
Khoa hương nguyên sĩ vọng ( 2 lần thủ khoa) làm
quan đến chức Đại phu lễ bộ tả thị lang ( Bộ trưởng bộ Lễ, tương đương Bộ giáo dục hiện nay )
Cụ là người thông minh trí
dũng toàn tài; tính tình khoan dung độ lượng.Cụ đỗ hai lần thủ khoa vào thời
Hậu Lê. Khi nhà Lê mới đánh tan nhà Mạc,
ở vùng Phú Thọ bấy giờ giặc giã nổi lên nhiều vô kể, chúng thi nhau cướp bóc,
ức hiếp dân lành, các quan cai trị tại địa phương cũng phải bỏ chạy. Triều đình
cử cụ Lê Nho Khoa về trấn ải ở vùng Đà Giang, Lâm Thao. Cụ đã dùng mưu bắt sống
tướng giặc Nông Quận, giải về Triều.
Vua Lê vui mừng khen ngợi
cụ, ban cho mũ áo, lụa tiền và 6 chữ “ Văn thần trung, vũ thần
tại”. Nhân dân trong
vùng coi cụ như một vị cứu tinh.
+ Cụ Lê nho Thạc ( Hiến Hồ ) làm quan đến chức Hiến phó sát sứ Sơn Nam (
như quan đốc học tỉnh Nam Hà).
Cụ là một trong những thầy giáo của
quan Bảng nhỡn Lê Quý Đôn nổi tiếng. Nhà bác học này có câu đối ở nhà thầy
mình:
Thùy thế giáo vô cùng thu dương giang
hán
Tại nhân tâm bất dẫn Bắc Đẩu Thái Sơn
( Sự giáo dục như nước ở
sông Thu Dương, giang hán không bao giờ ngừng chẩy;
Người học trò coi thầy như là sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn không bao
giờ khuất)
Hiện câu đối trên treo ở nhà thờ nơi cụ Lê
Nho Thóc ở.Cụ cũng là thầy dạy của 2 tiến sĩ lê Doãn Giản, Lê Doãn Thân.
+ Cụ Lê Doãn
Giản sinh năm 1715, năm 29 tuổi đỗ Đệ tam giáp
đồng tiến sĩ khoa Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743) đời vua Lê Hiển Tông,
làm quan đến chức Hữu thị lang bộ Công, Hành sơn nam, Thừa chính sứ.
+ Cụ Lê Doãn
Thân sinh năm 1720, năm 29 tuổi đỗ Đệ tam giáp
đồng tiến sĩ khoa Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 9 (1748) đời vua Lê Hiển Tông,
làm quan đến chức Thừa chính sứ, Tứ xuyên bá.
(Các Tiến sĩ trên, còn con cháu hậu duệ, nhà
thờ họ, bia đá, gia phả ghi chép về các cụ).
+ Cụ Lê Quýnh ( 1750-1805):
Cụ là quan nhà Lê Trung hưng, còn có tên là Lê Doãn Hữu, con trai của
tiến sĩ Lê
Doãn Giản. Năm 21 tuổi, cụ Lê Quýnh được bổ làm nho sinh ở Chiêu Văn
quán. Lúc trẻ là một công tử mải chơi nhưng biết làm văn. Năm 1774, lúc 25
tuổi, cha mất, về làng nuôi mẹ.
Ngày xưa, với quan điểm trung với vua là trung
với nước, tôi trung không thờ hai chúa, cụ Phò vua Lê chống quân Tây Sơn.
Khi phò vua Lê Chiêu Thống sang Trung Quốc, Phúc
Khang An ( Tổng Đốc Lưỡng Quảng - thay Tôn Sĩ Nghị ) sai người gọi các cụ Lê
Quýnh, Lê Doãn Trị, Trịnh Hiến và Lý Gia Du vài mươi người đến Quảng Tây dụ bảo
cắt tóc và thay đổi đồ mặc như người Trung Hoa thời nhà Thanh lúc bấy giờ. Cụ
Lê Quýnh đáp lại rằng:
Được ơn vời đến đây,
chúng tôi chưa được nghe ngài dạy bảo rõ ràng gì cả, thế mà nay chỉ bắt chúng
tôi gióc tóc thì há phải là ý muốn ban đầu của bọn Quýnh này chạy vạy hàng hai,
ba ngàn dặm sang đây để nhận lãnh lệnh truyền ấy đâu? Đầu chúng tôi có thể chặt
được, chứ tóc chúng tôi không thể gióc được".
Phúc Khang An tức giận, cho đưa luôn cả
nhóm Lê Quýnh lên Yên Kinh đến Sơn Đông thì vừa gặp vua Thanh Càn
Long đi tuần du ở phía đông. Vua Thanh triệu Lê Quýnh cùng đồng liêu vào yết
kiến nói:
Chúa nhà các ngươi đã
tình nguyện yên phận ở lại Trung Quốc rồi, các ngươi đã một niềm theo vua thì
khá lập tức gióc tóc và thay đổi lối ăn mặc để đợi lựa chọn bổ dùng.
Lê Quýnh từ tạ mà rằng:
Muôn dặm đi tòng vong,
chúng tôi xin được giữ theo quốc tục để vào yết kiến quốc vương một chút đã,
rồi sau sẽ xin vâng theo chỉ dụ gióc tóc cũng chưa muộn.
Vua Thanh khen nói: Thật là trung thần của họ Lê.
Tuy vậy, Càn Long vẫn cho
đưa Lê Quýnh và các đồng liêu vào Yên Kinh. Về sau, vì không chịu gióc tóc, Lê
Quýnh bị khép vào tội chống mệnh lệnh vua Thanh, bị giam ở ngục Bắc Sở thuộc tu
Thận Hình.
Có tài liệu nói : Sau khi nhà thanh vẫn
bị Nguyễn Huệ đánh cho đại bại về nước, để giữ tình bang giao giữa 2 nước,
Quang Trung vẫn phải sai người sang đề nghị nhà Thanh phong vương…. Cuối cùng, Khang An cũng nói trắng với bọn
Quýnh là thiên triều đã phong vương cho Quang Trung rồi, nay chẳng những nhà
Thanh không kéo quân sang giúp nhà Lê mà bọn Quýnh cũng không thể nào về nước
được nữa. Tốt nhất là ở lại Trung Quốc, An sẽ xin vua vua Thanh bổ dụng.Nhưng Quýnh chối từ: “Lưu lại nội địa, không phải sở nguyện của chúng tôi. Vì lưu lại đây, thì bỏ việc nước không hỏi đến, ấy là bất trung. Bỏ cha mẹ không đoái đến, ấy là bất hiếu. Phụ những kẻ đồng tâm chết với nước, ấy là bất nghĩa. Lỡ lòng mong cứu khỏi đầm, chữa khỏi cháy, ấy là bất nhân. Vì nước mà đổi thành bán nước, ấy là bất trị. Liều mình mà trái lại giấu mình, ấy là bất dũng, mang đủ sáu điều đó, sao xứng được làm người? Trung Hoa tuy rộng, cũng không đất dung những đồ chó lợn ấy”. (BHTK- Bắc hành tùng ký- tức nhật ký tháp tùng Lê Chiêu thống sang Trung Quốc của cụ Lê Quýnh).
Quýnh bị đày đi Quảng Đông (có sách nói là Sơn Đông). Tháng 3-1790, nhân xa giá vua Thanh đi Đông tuần, Quýnh được gặp Càn Long. Càn Long bảo: “Chúng bay không vì sự thịnh suy mà tiến thoái, khá khen lòng thành giữ trung nghĩa. Trẫm không nỡ khép tội”. Nhưng lại vẫn ép: “Chủ các ngươi đã xin yên ổn ở lại Trung Quốc, lũ các ngươi giốc lòng cùng theo, thì nên lập tức gọt đầu gióc tóc, đổi đồ mặc để chờ mệnh lệnh” (BHTK).
Nhà Thanh đưa Quýnh lên Yên Kinh. Tại đây chúng vẫn tiếp tục ép Quýnh gọt đầu gióc tóc. Quýnh vẫn chống lại. Quýnh thuyết phục bọn quan lại nhà Thanh rằng chữ trung mình đã không giữ được thì xin cho về phụng dưỡng mẹ già để vẹn chữ hiếu. Bọn chúng bảo: “Chúa các anh ở đây, mà các anh không theo, thế thì trung được sao?”. Và bố trí cho vua tôi gặp nhau.
Tại cuộc gặp, các quan nhà Thanh cố lấy lời khéo dỗ vua Lê bảo bọn Quýnh cắt tóc. Bọn Quýnh khóc, lạy mà nói rằng: “Bọn Quýnh sống làm tôi nhà Lê, chết làm ma nhà Lê. Ngoài ra thì không phải sở nguyện” (BHTK).
Các quan nhà Thanh mắng: “Mệnh chúa anh, anh cũng không theo. Ấy há là đạo của kẻ làm tôi sao?” (BHTK). Quýnh trả lời: “Bổn phận kẻ làm tôi thờ vua vốn phải theo mệnh, nhưng cũng phải theo lẽ buộc đừng theo. Nếu có thể nhờ vậy mà không phục mệnh vua, thì ấy cũng là theo mệnh vua đó. Nay, cái mệnh bảo cắt tóc, ở miệng thì là mệnh, nhưng trong tâm thì không phải là mệnh. Bọn Quýnh nguyện theo cái mệnh trong tâm của chúa mình, kẻo chúa cũng bất đắc dĩ mới phải làm cái sự (các ngài) yêu cầu đó mà thôi” (BHTK).
Bọn quan nhà Thanh tiếp tục giam lỏng Quýnh. Cuối năm đó lại dụ Quýnh: “Cạo đầu thì vua tôi cha con sẽ đoàn tụ vui vẻ cùng nhau. Sao mà cứ một mực ngây ngốc, không chịu theo gần nhân tình đến thế?”. Quan bộ đường đề thẩm, chức thượng thư là Hồ Quý Đường, bảo rằng: “Các anh nếu không cạo tóc thì sẽ chết già trong ngục, chôn thây theo sở nhà tù. Cắn rốn (hối hận) sao kịp?” (BHTK).
Quýnh và ba người nữa tiếp tục bị giam. Đầu năm 1799, Quýnh lại làm tờ tâu:
“Chúa cũ là tôi con thiên triều. Quýnh là dân của chúa cũ, thì không những nghĩa và lý đáng phải tránh làm dân Nguyễn Huệ, mà tấc lòng tôi cũng không thẹn. Cúi xin trời che, đất chở, khí xuân nuôi, lòng bể chứa, bằng lòng cho bọn Quýnh về làm tên dân ở biên giới Lưỡng Quảng, được qua lại (đường ranh) buôn bán gần chỗ an trí. May chi được thăm viếng mẹ già và nuôi nấng, thì không còn điều gì oán tiếc. Nếu sức có thể đem gia quyến tới ở nội địa, thì cũng xin được tuỳ tiện mà làm…” Quan tả thị lang họ Hùng bảo: “Phải xin cắt tóc và xin cho ở cạnh doanh An
Bọn Quýnh lại trả lời như trước rằng:
“Xin thả ra để đem thân xác về. Được thế thì nguyện cắt tóc để tạ ơn trời. Nếu không được thế, thì xin giữ tóc để hợp lẽ trời” (BHTK).
Tháng 5 năm 1792, con nhỏ
của Lê Chiêu Thống qua đời, đến ngày 16 tháng 10 năm 1793 vua Lê Chiêu Thống
buồn rầu mà chết. Tới tháng 11 năm 1799 thì thái hậu mẹ Lê Chiêu Thống cũng
chết. Cùng năm ấy (1799), vua Thanh Gia Khánh sai
thả Lê Quýnh và các đồng liêu ra khỏi ngục, từ đầu tóc đến ăn mặc đều được để
cho tùy tiện.
Ngày 16 tháng 9 âm lịch năm
Ất Sửu (1805) ông mất, hưởng dương 55 tuổi. Tác phẩm của ông còn lưu lại là các
tập "Bắc hành tung
kí", "Bắc hành lược biên" và "Bắc sở tự tình phú", có giá trị sử học và văn học.
Đến mùa hè năm Tự Đức thứ
14 (1860), các quan ở Bộ theo lời bàn kê rõ lý lịch
các vị cựu thần nhà Hậu Lê, vâng chỉ dụ của nhà vua cho lập đền thờ ở phía tây
thành Thăng Long, tại phường Thuỵ Chương, huyện Vĩnh Thuận (nay là ngõ 124,
đường Thụy Khê, Hà Nội.Thứ tự các bài vị đều sắp đặt theo như lời bàn của Bộ.
Chính giữa là linh vị của Trường Phái hầu Lê Quýnh, đặt thuỵ hiệu là
"Trung Nghị”.
( Đoạn nói về cụ Lê Quýnh chủ yếu theo tài
liêu của BKTT mở Wikipedia – đề nghị xem
thêm bài 200 năm biến thiên
của một dòng họ nổi tiếng
đăng trên trang Thư viện này )
+ Cụ Đỗ Trọng Vỹ sinh năm Kỷ Sửu
(1829), đỗ cử nhân khoa Giáp Tý, đời vua Tự Đức 17 (1864 –đồng môn với quan Tam
nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và ông nghè Dương Khuê), làm quan đến chức án Sát
sứ các tỉnh Thái Nguyên, Cao Bằng. Khi thực dân Pháp xâm lược Bắc Kỳ, cụ cáo
bệnh về ở ẩn, nhưng được mời ra giữ chức Đốc học tỉnh Bắc Ninh, chính cụ là
người đề cao nền văn hiến xứ Kinh Bắc và truyền thống hiếu học khoa bảng của
nước nhà. Ông là người cho di dời Văn Miếu tỉnh Bắc Ninh từ núi Thị Cầu về núi
Phúc Đức năm 1893 và hưng công xây dựng lại Văn Miếu hàng tỉnh này. Cụ cũng là
người cho dựng 12 tấm bia đá “Kim bảng lưu phương” ghi danh gần 700 vị đỗ đại
khoa của xứ Kinh Bắc. (Theo Gia phả họ
Đỗ, cụ là người chủ trương xây Văn Chỉ ở tổng Thượng Mão và một số công trình
khác ở Thuận Thành).
Hiện ở Thành phố Bắc Ninh có một con đường
mang tên cụ ( lối từ đường Lý Thái tổ vào trường Chuyên Bắc Ninh)
B- Thời kỳ trước và sau cách mạng tháng Tám,
có các cụ sau đây có nhiều cống hiến cho
sự nghiệp cách mạng của dân tộc
+ Cụ
Đỗ Thúc Phách sinh 1895-mất 1957, đỗ Cử nhân khoa Ất Mão
1915. “Là một nhà giáo dạy ở Trường Pháp Việt ở Nam Định, Phủ Lạng Thương, sau xin
từ chức về kinh doanh thực nghiệp và lập đồn điền. vào bậc Đại phú ở Bắc Việt,
theo kháng chiến ở Việt Bắc” ( Trích Gia
phả họ Đỗ ).
Cụ là người xây nhà thờ cụ
cử Đại ( con trai của cụ Đỗ Trọng Vỹ ) ở Đại Mão. Sau này khi cải cách ruộng
đất ngôi nhà bị tịch thu, rồi đêm ra chợ Giữa làm nhà kho của Hợp tác xã và
hiện nay được dỡ về làm nhà tiền tế ở Đình Làng.
Ở Bắc Giang, sau khi Nhật
đảo chính Pháp, nhiều đảng phái phản động tranh chấp quyết liệt với Việt Minh ( Quốc dân đảng, Đại Việt, Việt Nam Quang Phục hội…) , tất cả đều tìm đến
những nhà giàu có để khai thác, lôi kéo,dọa dẫm; nhưng cụ chỉ tin vào Bác Hồ,
tin vào Việt Minh. Đi theo Bác Hồ từ năm 1947, cụ hiến toàn bộ ruộng đất cho
cách mạng ( cỡ 1000 héc ta- 2700 mẫu bắc bộ ) ở đồn điền thuộc Hiệp Hòa – Bắc
Giang. Cụ được cách mạng giao làm Hội trưởng hội Việt Hoa thân thiện, nhà cụ là
nơi thường trú của các cơ quan đầu não của tỉnh, thường xuyên có 1 tiểu đoàn vệ
quốc của tỉnh Bắc Giang đóng chốt. Khi mặt trận Liên Việt (….) ra đời, cụ là ủy viên trung ương.
Tháng 3 năm 1948 , Bác Hồ
đã gửi thư khen ngợi cụ và các con của cụ. Trong thư có đoạn :” Cụ và các cháu thật xứng đáng Toàn gia kháng chiến- Phụ tử giới
binh”.
Một câu chuyện nói về 1 số sai lầm
trong cải cách ruộng đất có liên quan đến cụ : Lúc giảm tô CCRĐ, cụ về thăm
nhà, đội giảm tô mang cụ ra đấu. Nông dân nhiều người không đồng tình. Đêm hôm
sau ông Trần Trung bí thư tỉnh ủy Bắc Giang lập tức về ngay:
-
Cụ hết sức thông cảm, đây là một hành
động tự phát chứ không hề có sự chỉ đạo của Đảng. Cụ là nhân sĩ yêu nước, vì
phong trào “ mới lên” nên chúng tôi cũng không thể kỷ luật “ cái Đội” này được
. Ngày mai xin cụ trở về Trung ương tiếp tục công việc cho.
( Theo Đỗ gia thế phả - Đỗ Thiếu Khang )
.
+ Cụ
Lê Nho Thành tức
Lê Nho Bổng nguyên là một lính khố đỏ ( lính chính quy – thời Pháp bắt đi, như là nghĩa vụ quân sự, khác với
lính khố xanh- địa phương quân). Sau khi Nhật đảo chính Pháp, cụ được giác ngộ
cáh mạng và tham gia Khởi nghĩa Bắc Sơn ( tháng 9 năm 1940) . Hy sinh năm 1944
tại Bắc Sơn. Trong cuốn "Đại Mão làng quê văn hiến", phần ghi về Danh sách các
liệt sĩ của quê hương, tên ông được xếp đầu tiên.
+ Cụ
Lê Minh Nghĩa tức Đỗ Nguyên Thành. Cụ
tham gia phong trào học sinh yêu nước ở trường Bưởi. Năm 1945 tham gia cướp
chính quyền ở Bắc Ninh. Được cử làm ủy viên quân sự, chính trị viên tỉnh đội; Phó
đoàn đại biểu Bộ Tổng Tư lệnh trong Ban liên lạc thi hành Hiệp định Đình chiến
Giơnevơ ( Hội nghị Trung Giã 1954), Đại tá -Trưởng ban Ban Biên giới của Chính
phủ. Cụ được thưởng Huân chương Độc Lập hạng nhất, an táng tại Nghĩa trang mai
Dịch Hà Nội.
+ Cụ Nguyễn
Hữu Chấn : Ngay sau cách mạng Tháng Tám, cụ được cử làm
Chủ tịch Ủy ban Lâm thời thôn> Trong Kháng chiến,cụ được cách mạng cử làm
Trưởng tề để đấu tranh hợp pháp với địch, ủng hộ kháng chiến. Cụ là bố đẻ của 2 liệt sĩ là Nguyễn Hữu
Tẩm và Nguyễn Hữu Hựu. ( Ở
Đại Mão còn có gia đình cụ Trịnh Đức Khu có 2 con là Liệt sĩ Chống Mỹ là Nguyễn
Hữu Trọng và Nguyễn Hữu Đỗ )
+ Cụ Đỗ
Trọng Tứ : một trong
những thanh niên yêu nước tham gia các phong trào của Việt minh trước CM tháng 8
cùng các cụ Nguyễn Hữu Biên,Lê Nho Hiện,Nguyễn Đình Địch, Nguyễn Hữu Nhạn,
Nguyễn Đình Gia, lê Doãn Nhung, Lê Doãn Bội, Lê Đình Thỉnh, Đỗ Tuấn Anh, Nguyễn
Đình Tài, Nguyễn Hữu Tài,Nguyễn Hữu Nhạn…Nguyễn Thị Thanh,Đỗ Kim Thiện,Đỗ Thị
Kiệm…
Là đảng viên đầu tiên của
xã, ở Chi bộ ghép 3 xã ( Hoài Đức, Thượng mão và Mão Điền) thành lập năm 1947;
trực tiếp phụ trách xã Thượng Mão . Năm 1948 cụ bị bọn giặc ở bốt Hồ và bọn
gián điệp chỉ điểm bắt ngay tại nhà. Bọn giặc tra tấn dã man cả cụ ông, cụ bà nhưng các cụ đều không khai báo
gì về việc làm của mình và tình hình cơ sở. Cuối cùng bọn giặc bắt cụ đi tù ở
bốt Hồ, Kẻ Sặt, Hà Nội… vẫn không khai thác được gì ở cụ. Do bị tra tấn nhiều,
đói khát, bệnh tật… sức khỏe rất yếu địch thả cụ về, cụ lại tiếp tục hoạt động
kháng chiến chống Pháp cho đến tháng 10 năm 1954 cụ mất. Sau 50 năm, tháng 5
năm 2014, cụ được nhà nước truy tặng danh hiệu Liệt Sĩ.
+ Cụ Nguyễn Hữu Biên : tham gia
phong trào cùng các cụ nói trên. Được kết nạp vào Đảng trong những năm gay go
nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi làm Bí thư, Chủ tịch xã, sau đó
được điều động lên chiến khu. Sau hòa bình, cụ về công tác tại Tổng Công ty Xuất Nhập khẩu Lâm Thổ sản NAPOLIMEX ( Bí thư Đảng bộ ) - Bộ Ngoại Thương. Cụ là bố BS Nguyễn Hữu Phê ( Tuấn Anh ) - Khoa Hồi sức Bệnh viện Quân Đội 108- Hà Nội. Cụ mất năm 1971.
+ Cụ Nguyễn
Đình Gia : tham gia phong trào cùng các cụ nói trên.
Trong quá trình hoạt động, cụ bị bắt và đầy đi tận Miền Nam . Sau này công tác tại huyện
Thuận Thành ; làm Phó Phòng Lương Thực huyện.( đã mất )
+ Cụ Đỗ Mạnh Khang tức trần Vũ, trưởng thành trong phong
trào sinh viên, Chỉ huy trưởng quân sự huyện Gia Bình, hy sinh năm 1950. ( Xem
thêm về thơ của tác giả Trần Dực –số 13 trên trang Thư viện này)
+ Cụ Đỗ Tuấn Anh tức Trần Dực sinh năm Đinh Mão 1928. Lúc
nhỏ, ông được học ở trường Bưởi, đỗ Trung học rồi Trung học Chuyên Khoa. Tháng
12-1944 tham gia Đoàn học sinh cứu quốc của Mặt trận Việt Minh tại trường, đi
bộ đội tháng 2 năm 1947, vào Đảng CS tháng 8 năm 1947.
Cụ từng giữ các chức vụ : Chính trị viên Trung đội 3, Đại
đội Nghĩa quân (1947); Phó ban Chính trị Tỉnh đội BN ( 1948-1949); Phó ban
Tuyên huấn Bộ Tư lệnh Liên Khu Việt Bắc (1950); Trưởng ban Tuyên huấn Quân Khu
Đông bắc (1955); Chính ủy Trường Quân
chính Quân Khu Đông bắc (1956-1957); Tư
lệnh Pháo Binh Quân Khu Đông Bắc ( 1964-1967); Tham mưu trưởng Pháo Binh mặt
trận Tây Nguyên ( 1971-1972) và Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải Quân Nhân
dân Việt Nam.
Cụ Trần Dực từng được đào tạo ở nước ngoài ( Tốt nghiệp
Pháo Binh cao cấp Thẩm Dương TQ 1959- Học viện hải Quân Lêningrat ( Liên xô
1979 ) ; sử dụng được các ngoại ngữ Pháp, Trung Văn, viết tiếng Nga và khá
thông chữ Hán. Là người dịch Bắc Ninh
Địa Dư chí của cụ Đỗ Trọng Vĩ, Âm chất diễn nôm của cụ Đỗ Dư… ông có
nhiều công sức về việc biên dịch gia phả của dòng họ Đỗ Đại Mão, hậu duệ của
Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật ( An Bình ).
+ Cụ
Lê Đình Thỉnh sinh năm 1932, vào bộ đội
chính quy vào loại sớm trong làng, đã tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Ở binh chủng phòng không, ông tham gia chỉ huy cùng đơn vị đánh
máy bay Mỹ trong trận Điện Biên Phủ trên không năm 1972. Về hưu với quân hàm
Trung tá, cụ có ý thức tốt tham gia xây dựng địa phương.
+ Cụ
Đỗ Ngọc Châu Con trưởng của cụ Đỗ Thúc
Phách, nhân sĩ yêu nước nói trên.Sinh năm 1918, đỗ Tú Tài văn chương phần II từ
trước CM tháng 8, thời kháng chiến 9 năm đã làm Giám đốc Nha Thông tin tuyên
truyền Khu Việt Bắc, biên tập viên Tạp chí Học Tập ( Tạp chí Cộng Sản sau này).
Hòa bình lập lại, cụ về học tại Trường Nguyễn Ái Quốc rồi làm chủ nhiệm khoa Sử
Đại học Tổng hợp Hà Nội. Sau khi về hưu, cụ vẫn là một báo cáo viên có uy tín
về những vấn đề quốc tế của Ban Khoa Giáo Trung ương.
+ Cụ
Lê Đình Kỉnh Tham gia hoạt động từ thời
KC chống Pháp, ủy viên thư ký UBHC xã, sau đó đi công tác tại Công ty Vật Tư .
Cụ đã từng được thưởng Huy hiệu Hồ Chủ tịch, và được tặng Huân, huy chương
Kháng chiến.
Cụ Kỉnh và cụ Tính là hai
anh em ruột; là con cụ Vũ Thị Cấp cũng được Hội đồng chính phủ tặng Bằng
Khen về thành tích nuôi dấu cán bộ, bộ đội trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp.
+ Cụ
Trịnh Đức Tần Tham gia hoạt động từ thời KC chống Pháp đi bộ đội , về
nghỉ hưu với cấp bậc Trung tá.
+ Cụ
Nguyễn Đình Địch tham gia hoạt động từ thời KC chống Pháp, là chủ tịch
xã một số năm, cán bộ Nông trường Tam Thiên Mẫu (đã nghỉ hưu )
+ Cụ
Lê Đình Tính Tham gia hoạt động trong
phong trào thanh niên thời KC. Vào bộ đội năm 1953, rồi chuyển sang Công an
nhân dân vũ trang, rồi chuyển ngành sang làm cán bộ ngoại thương. Năm 1965 tái
ngũ, cụ tham gia quân tình nguyện đi chiến đấu tại chiến trường Lào. Đã từng là
Trưởng ban Tổ chức cán bộ Bộ Tham mưu Quân khu Thủ đô. Về hưu 1983 với hàm Thiếu tá.
+ Cụ
Nguyễn Đình Tài tham gia hoạt động từ thời
KC chống Pháp,là chủ tịch xã một số năm, chuyển sang làm cán bộ Ty Giao thông
thời chống Mỹ, là bố đẻ của Liệt sĩ Nguyễn Đình Nha.
Phát huy truyền thống quê
hương, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và sau hòa bình thống nhất đất nước, có nhiều người
cũng có cố gắng, phấn đấu trong mọi lĩnh vực công tác đạt những kết quả đáng
biểu dương:
Trong lực lượng vũ trang
+ Ông
Lê Đình Đạt Tiến sĩ, được phong quân hàm Thiếu tướng tháng
12 năm 2011, hiện là Cục trưởng Cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng - Bộ Quốc phòng.
+ Cụ Nguyễn Hữu Tụy Đại tá ( đã nghỉ hưu)
+ Ông Nguyễn Đình Long Đại tá ( đã nghỉ hưu)
+ Ông Nguyễn Đình Long Đại tá ( đã nghỉ hưu)
+ Ông
Lê Doãn Huy Đại tá, tư lệnh pháo binh
Quân khu I (đã nghỉ hưu)
+ Ông
Nguyễn Hữu Tuệ Đại tá, Trường Quân Chính
Quân khu 1 ( đã nghỉ hưu)
+ Ông
Lê Nho Tụy Đại tá, Công an tỉnh Bắc
ninh ( đã nghỉ hưu)
+ Ông
Đỗ Trọng Khuê Đại tá Tiến sĩ,
+ Ông
Nguyễn Đình Luyện Đại tá Thạc sĩ, Cục phó
Cục cơ yếu
+ Ông
Lê Nho Thiết Đại tá, Học viện Kỹ thuật
quân sự.
+Ông
Trịnh Đức
Hinh Thượng tá
+Ông Lê Doãn Lược
Thượng tá
+Ông Lê Đình Thịnh
Trung tá…
Và rất nhiều
người khác đã là sĩ quan phục vụ trong quân đội và công an ( các ông Lê Doãn
Yển, Lê Doãn Lương… đã nghỉ hưu và nhiều anh chị em khác còn đang phục vụ trong
các lực lượng vũ trang.
Trong hai cuộc Kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ và các cuộc chiến bảo vệ biên giới hoặc đi làm nghĩa vụ quốc tế, Đại
Mão đã gửi nhiều người con ra trận trực tiếp cầm súng hoặc phục vụ chiến đấu
như đi dân công, thanh niên xung
phong…Có 47 người được công nhận là Liệt Sĩ và cấp Bằng Tổ Quốc Ghi Công (
Chống Pháp 16 người, sau này 31 người )
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, giáo dục ngoại giao, kinh tế thương
mại…
+ Cụ
Lê Nho Thầm Giám
đốc Sở Thông tin tín hiệu Tổng cục Đường sắt ( đã mất)
+ Cụ Lê
Nho Hiện Thường
vụ huyện ủy , trưởng ban Tổ chức huyện ủy ( đã mất )
+ Cụ Nguyễn
Hữu Thướng Chủ tịch, Bí thư huyện ủy Thuận Thành ( nghỉ
hưu)
+ Cụ Đỗ Bội Hoàn
Tốt nghiệp Kỹ sư cao cấp ESE tại Pháp, tham gia thiết kế vệ tinh khảo
sát trái đất của Pháp, cộng tác với NASA góp phần thiết kế vệ tinh khảo sát Sao
Hỏa
+ Ông
Nguyễn Đình Xuyến, Cán bộ HTX, bộ đội đi B rồi chuyển ngành, Bí thư Đảng ủy, Hiệu
trưởng Trường Trung cấp Nghiệp vụ Thủy lợi ( đã mất)
+ Ông Lê Doãn Yển
Tốt nghiệp Đại học tại Liên Xô, Trưởng bộ môn Tiếng Nga Trường Sĩ Quan
Phòng Không, Thiếu tá về hưu.
+ Ông Lê Doãn Liên
Giám đốc công ty XD- Bộ Giao thông
( đã nghỉ hưu)
+ Ông
Lê Nho Nùng Nhà giáo ưu tú- Giám Đốc Sở GD ĐT Bắc
Ninh ( đã nghỉ hưu), hiện là Chủ tịch Hội Khuyến học Bắc Ninh, Chủ tịch Hội Thơ
BN
+ Ông
Lê Nho Chất Phó Chủ tịch huyện Gia Lương ( đã nghỉ hưu)
+ Ông
Nguyễn Đình Bồn Vụ Tổ chức cán bộ Cục Đường bộ ( đã nghỉ hưu)
+ Ông
Lê Nho Uyển Đi bộ đội vào chiến đấu
ở miền Nam ,
bị địch bắt đi tù ở Phú Quốc.
Sau Hiệp định Pa ri được
trao trả trở về Bắc; học Đại học Y, về công tác tại BV Thuận Thành sau đó là Giám Đốc BV ( đã mất)
+ Ông
Lê Nho Phùng Thường vụ Thành ủy, Chủ
tịch Mặt trận TP Bắc Ninh ( đã nghỉ hưu)
+ Ông
Đỗ Ngọc Khuê Tiến sĩ chuyên ngành Hóa
Đại học Kishinhôp- Nga; Tiến sĩ khoa học Đại học Lô mô nô xốp –Nga; 1996 nhà
nước Việt Nam phong Giáo sư Hóa học, từ
năm 1998 Bộ Quốc phòng công nhận là Nghiên cứu viên cao cấp, Đại tá, hiện vẫn
công tác tai Viện Khoa học và Công nghệ quân sự, Bộ Quốc Phòng
+ Ông Lê
Đình Ngạn Bí Thư Đoàn trường cấp III Hàn Thuyên thị xã Bắc Ninh, HT cấp 2 Hoài Thượng,HT cấp 3
BTVH huyện Thuận Thành, Phó GĐ Trung tâm GDTX huyện Thuận Thành ( đã nghỉ hưu)
+ Ông
Lê Doãn Hạnh Tốt nghiệp đại học tại
Nga, Chi Cục Trưởng Chi cục phia nam – Cục Hàng Hải Bộ giao thông ( Đã nghỉ
hưu)
+ Ông
Nguyễn Đình Bình Kỹ sư GT- Chánh Thanh tra
Sở Tài nguyên Môi trường Vũng
Tầu ( đã nghỉ hưu)
+ Ông
Nguyễn Hữu Hạp Kỹ sư Đại học Hàng hải – Giám đốc cảng Phà đen HN (
đã nghỉ hưu)
+ Ông Lê Nho Tờ Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công đoàn, Trưởng Phòng TN xí nghiệp Khảo sát Thiết kế- Tập Đoàn Than Khoáng Sản Việt Nam
+ Ông Lê Nho Tờ Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công đoàn, Trưởng Phòng TN xí nghiệp Khảo sát Thiết kế- Tập Đoàn Than Khoáng Sản Việt Nam
+ Ông
Trịnh Đức Khanh Hiệu trưởng Trường THPT
Thuận Thành III ( đã nghỉ hưu )
+ Ông
Nguyễn ( Đình) Nam
Hải, Trưởng phòng GD-ĐT
Lục Nam
( nghỉ hưu)
+ Ông Lê
Đình Toán Nguyên Phó bí thư
huyện đoàn Thuận Thành - hiện ở SG
+ Ông
Lê Đình Thanh Phó Bí thư HU- Chủ
tịch UBND huyện Thuận Thành
+ Ông
Lê Đình Tự Tiến sĩ, giảng viên học
viện ngoại giao, tùy viên ĐSQ tại Liên Bang Nga
+ Ông
Lê Nho Cù Giám đốc Vietcomban Chi nhánh Vĩnh
Phúc ( đã chuyển về HN )
+ Ông
Lê Nho Ích Giám
đốc Vietcomban Chi nhánh Bắc Ninh
+ Ông Lê Nho Đệ Thanh tra Kho bạc Nhà nước tỉnh Bắc Ninh
+ Ông Lê Nho Đệ Thanh tra Kho bạc Nhà nước tỉnh Bắc Ninh
+ Ông
Lê Nho Thướng Trưởng phòng Tổ chức Tổng Công ty May Việt Nam
+ Bà Lê Thị Chung Phó
Giám đốc Phân viện Học Viện Ngân hàng TP
Bắc Ninh
+ Ông Lê Nho San Hiệu trưởng trường THPT Yên Thế, PHT THPT Thuận Thành I
+ Ông Lê Nho Thạnh Phó Ban CT Đảng - Ban cán sự Đảng ngoài nước của BTC TW hiện đang công tác tại ĐSQ Việt Nam tại Liên Bang Nga.
+ Ông Lê Nho Thái Trưởng phòng, SởThông Tin truyền Thông tỉnh Bắc Ninh.
+ Ông Lê Nho Thạnh Phó Ban CT Đảng - Ban cán sự Đảng ngoài nước của BTC TW hiện đang công tác tại ĐSQ Việt Nam tại Liên Bang Nga.
+ Ông Lê Nho Thái Trưởng phòng, SởThông Tin truyền Thông tỉnh Bắc Ninh.
+ Ông
Nguyễn Hữu Thanh Phó Hiệu trưởng trường THPT Thuận Thành I
+ Anh Vũ
Huy Hưng Tiến sĩ – Cán bộ Giảng dạy Đại học tại Ca Na Đa…
+……………..
Trong khoảng hơn 200 các thầy cô giáo người Đại Mão đã và đang
dạy học ở địa phương và các vùng miền khác ở các cấp PT và ĐH, có nhiều thầy cô
giáo làm công tác quản lý lâu năm như các thầy Lê Nho Bảo, Lê Doãn Đằng, Đỗ
Trọng Diệp, Lê Đình Nghiễn, Nguyễn Hữu Kim, Lê Nho Tài, Lê Nho Thu, Lê Doãn Cự,
Lê Nho Nhị, Lê Thị Hường , Lê Thi Trang, Lê Thị Năm, Nguyễn Hữu Thử, Trịnh Đức
Khái, Lê Nho Thấm, Nguyễn Hữu Chiến, Nguyễn Thị Phương Viên, Nguyễn Hữu Chế,
Nguyễn Hữu Nghị, Lê Nho Thắng...Có nhiều thầy giáo dạy giỏi như Lê Nho Tỳ, Trịnh Đức Khanh,
Lê Nho Ánh….
Trong cuộc Kháng chiến
CMCN, có 3 nhà giáo đã lên đường nhập ngũ, vào Nam chiến đấu và anh dũng hy
sinh được công nhận là liệt sĩ : Lê Đình Nghiễn, Nguyễn Đình Điền và Nguyễn
Hữu Thành Sơn.( Cụ Lê Thị Tải, mẹ liệt sĩ Lê Đình Nghiễn được nhà nước
phong tặng Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, được Học viện Hậu Cần QĐND Việt nam nhận
phụng dưỡng Mẹ).
Có nhiều cháu học sinh ngoan ngoãn, học giỏi, đạt được nhiều thành tích trong các kỳ thi quốc gia, tỉnh, huyện tôi chưa có điều kiện thống kê ( Phần này các thầy cô giáo nên có các bài viết riêng, động viên các thầy cô giáo dạy giỏi và các cháu học sinh của thôn xã).
Có nhiều cháu học sinh ngoan ngoãn, học giỏi, đạt được nhiều thành tích trong các kỳ thi quốc gia, tỉnh, huyện tôi chưa có điều kiện thống kê ( Phần này các thầy cô giáo nên có các bài viết riêng, động viên các thầy cô giáo dạy giỏi và các cháu học sinh của thôn xã).
Trong lĩnh vực quản lý làng
xã, cũng có nhiều các ông các bác, các bác,
các đồng chí làm cán bộ Đảng ủy, UBND, các Đoàn thể ở xã; Chi bộ, các tổ chức,
đoàn thể ở thôn, ngõ xóm… trong thời kỳ chiến tranh cũng như trong hòa bình đều
tận tụy hết lòng với công việc mình được phân công, trung thực liêm khiết, luôn
chăm lo cho dân từ cụ già đến cháu nhỏ, từ người sống đến người chết, người đi
xa. Họ là những con chim đầu đàn tập hợp mọi người xây dựng quê hương. Mọi
người chúng ta cần phải biết đến cái
khó, cái khổ của họ mà thông cảm và ủng hộ.
Trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, cũng có nhiều người
làm tốt, tạo lập kính tế gia đình cũng như tạo công ăn việc làm cho nhiều người
dân ở trong thôn như Lê Thị Lượng ( Công ty Quang Hưng), Lê
Doãn Vĩnh ( công ty Hoài An ); Lê Phương Nam ( Lê Đình Chuyền- công ty Nam Tiến
), Nguyễn Hữu Thụy ( Công ty Thành Thái), Nguyễn Hữu Bảo, Nguyễn Hữu Hậu, Lê
Doãn Giáp, Nguyễn Đình Dã Thảo, Nguyễn Hữu Thanh, Lê Đình Chiến Mai, Lê Doãn
Đĩnh, Lê Đình Thái… Nhiều
người làm đội trưởng xây dựng như: Lê Đình Thi, Lê Đình Thắng, Nguyễn Hữu
Chức, Lê Doãn Mật…Cũng
khá nhiều người làm trang trại có hiệu quả như Nguyễn Hữu Tần, Lê Nho
Khanh, Lê Đình Văn, Vũ Huy Vinh…
Khu Ngõ Giếng Mới: Trường Mầm Non,Công ty Hoài An, Công ty Nam Tiến, Khu nhà cạnh chợ Giữa |
Các anh, các chị đã đổ
bao mồ hôi và tâm sức để có thêm thu nhập cho bản thân mình, rồi giúp đỡ anh em, người thân trong gia đình; làm
giàu thêm cho quê hương bằng cách tạo nhiều công ăn việc làm cho nhiều lao động
khác.
Họ còn trực tiếp xây dựng quê hương bằng việc
đóng góp cho Quỹ Khuyến học của dòng họ, của thôn; góp công góp của tôn tạo
Đình, chùa, sửa chữa đường xá; tài trợ cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ,
hoạt động của Thư viện thôn…
Còn nhiều tấm gương đáng học tập mà tôi
chưa có điều kiện thống kê, mong mọi người thông
cảm…
Đại Mão hào hoa vạn thế anh
Điểm qua vài nét về Đất và Người Đại Mão -Trung Thôn, chắc nhiều
người cũng nghĩ như tôi: quê mình chưa hẳn đã đẹp và giàu có lắm, nhưng cũng là
một miền đất có những nét đẹp về văn hóa, nhiều nơi khác chưa chắc đã có.
Trải qua hàng mấy trăm năm, người dân Đại Mão đã vật lộn với thiên
nhiên, chống thù trong giặc ngoài; đã cùng nhân dân mọi miền quê khác xây dựng
và bảo vệ đất nước, cùng xây dựng những
phong tục tập quán đẹp của quê hương làng Giữa. Đến nay Đình Làng, nhà thờ họ
Lê Doãn được công nhận là Di tích Lịch sử văn hóa, chùa Sùng Ân của làng ngày
một khang trang. Nhiều năm, làng được công nhận là Làng Văn hóa. Nhiều truyền
thống được xây dựng từ ngàn xưa nay còn giữ được :
cần cù, sáng tạo trong lao động; chăm học
chữ và giỏi học nghề,làm nghề; dũng cảm trong chống giặc và chống thiên tai;
tôn sư trọng đạo; kính già mến trẻ; đoàn
kết và khiêm tốn; có ơn thì trả ơn, lấy đức báo oán...Nhưng
địa phương ta và trong từng gia đình vẫn còn những tồn tại, điểm yếu phải suy
nghĩ tìm cách khắc phục…
Chùa Sùng Ân khởi công xây Cổng Tam Quan ngày 10 tháng 3 năm Quý Tỵ 2013 |
Chúng ta tự hào và biết ơn các thế hệ tổ tiên, cha anh đã
đổ bao mồ hôi và máu xương để tô đẹp mảnh đất này. Chúng ta càng phải có trách
nhiệm phát huy truyền thống người xưa; làm cho quê ta, trong đó có gia đình ta,
ngày một văn hiến, giàu có và yên bình hơn...
Tôi
muốn dùng lại một vài câu thơ tôi đã làm để kết thúc bài viết này vì tôi luôn
tin rằng : tuổi trẻ Đại Mão nhất định phát huy được truyền thống quê hương, noi
gương tổ tiên cha anh làm cho quê hương ngày càng đẹp, càng giàu, cuộc sống
ngày một văn minh hơn:
Trung Thôn
kim cổ nhân khiêm nhượng
Đại Mão hào hoa vạn thế anh./.
Nhân
dịp làng ta khai trương thư viện
Tháng 4 năm 2013
LÊ NHO LÃNG
cái xấu xa như con giết cha,họ hàng kiện nhau vì cái lối đi,cờ bạc nghiện hút thì không nói tới.....Âu cũng chỉ vì hai chữ khoe mẽ mà thôi!
Trả lờiXóaBạn nhận xét hơi phiến diện rồi! Ngay trong một con người, bất cứ ai cũng có cái tốt, những mặt ưu và cái xấu cái nhược điểm, chứ chưa nói tới một địa phương, một đất nước. Người Làng Giữa chỉ mong cổ động được cái tốt, nhân cái tốt lên nhiều hơn thì cái xấu sẽ bớt đi. Ngay khi đọc đến những cái tốt, mỗi người sẽ tự soi mình sao cho ta tốt hơn lên. Đó là quy luật bạn ạ.
XóaHãy nhìn cuộc sống với một góc nhìn thiện chí hơn, tươi tắn hơn!
Đồng ý, chúng ta không tô hồng những nét đẹp, những cái tốt nhưng nên đưa ra để các thế hệ đã, đang và sẽ tiếp tục nhìn vào để phấn đấu hơn nữa vì chính chúng ta và vì 1 quê hương truyền thống hiếu học.
Trả lờiXóa