Hướng tới kỷ niệm Ngày truyền thống Mặt trận
Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam
18-11, Ban Thường trực Ủy ban T.Ư MTTQ
Việt Nam
đã ban hành hướng dẫn việc tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là
một hoạt động thiết thực, bổ ích được tổ chức hằng năm tại các khu dân cư trong
cả nước với mục tiêu tiếp tục tăng cường, củng cố và phát huy sức mạnh khối Đại
đoàn kết toàn dân tộc và nâng cao vai trò của MTTQ Việt Nam trong thời kỳ mới
nhằm triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Thông qua
tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ tuyên truyền, giáo dục, vận động
nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về Đại đoàn kết toàn dân tộc; yêu cầu
đại đoàn kết trong thời kỳ đổi mới đất nước; về lịch sử vẻ vang và sự đóng góp
to lớn của MTTQ Việt Nam trong lịch sử dân tộc; vai trò của MTTQ Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay. Tại Ngày hội, người dân có dịp đánh giá kết quả triển khai
các mặt công tác của MTTQ, nhất là việc triển khai các cuộc vận động, các phong
trào thi đua yêu nước ở khu dân cư.
Ngày Hội Đoàn kết toàn dân thôn Đại
Mão tổ chức vào ngày 12-11-2017, tổng kêt công tác của thôn trong phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa cũng như việc triển khai các cuộc vận động, các phong trào thi
đua yêu nước trong năm 2017, xây dựng phương hướng, chương trình phối hợp hành
động năm 2018; khen thưởng các tập thể cá nhân có nhiều thành tích và tặng quà
cho các hộ nghèo.
Trang TVGL Đại Mão Trung
Thôn xin giới thiệu bài phát biểu của
ông Lê Đình Ngạn – Chi hội trưởng Hội CGC thôn tham luận trong Hội nghị.
---------------------------------------------------------------------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----o0o-----
Đại Mão ngày 12 tháng 11 năm 2017
BÀI PHÁT BIỂU
TRONG NGÀY HỘI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN NĂM 2017
---------------------------------
Kính thưa: - Các
đ/c lãnh đạo xã và cơ sở thôn
- Các đ/c trong ban tổ chức hội nghị
- Các cụ cao tuổi và toàn thể các đại biểu tham dự hội nghị.
Hướng tới kỷ
niệm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam
18-11, Ban Thường trực Ủy ban T.Ư MTTQ
Việt Nam
đã ban hành hướng dẫn việc tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là
một hoạt động thiết thực, bổ ích được tổ chức hằng năm tại các khu dân cư trong
cả nước với mục tiêu tiếp tục tăng cường, củng cố và phát huy sức mạnh khối Đại
đoàn kết toàn dân tộc và nâng cao vai trò của MTTQ Việt Nam trong thời kỳ mới
nhằm triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Thông qua
tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ tuyên truyền, giáo dục, vận động
nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về Đại đoàn kết toàn dân tộc; yêu cầu
đại đoàn kết trong thời kỳ đổi mới đất nước; về lịch sử vẻ vang và sự đóng góp
to lớn của MTTQ Việt Nam trong lịch sử dân tộc; vai trò của MTTQ Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay. Tại Ngày hội, người dân có dịp đánh giá kết quả triển khai
các mặt công tác của MTTQ, nhất là việc triển khai các cuộc vận động, các phong
trào thi đua yêu nước ở khu dân cư.
Nhân ngày Hội Đoàn kết toàn dân thôn Đại Mão
hôm nay, tôi rất vui mừng được tham dự
và tự hào về sự đổi mới của quê hương, phấn khởi trước những thành tích của
thôn ta trong phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cũng như
việc triển khai các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước mà quê hương
ta đã đạt được, như BC của Ban công tác Mặt trận thôn đã trình bầy.
Được sự gợi ý của
đ/c Trưởng ban công tác Mặt trận thôn, tôi xin phát biểu một vài ý kiến về việc
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và xây dựng gia đình văn hóa, chăm
lo phát triển sự nghiệp giáo dục, về
công tác đền ơn đáp nghĩa, thương người của quê hương ta.
Chúng
ta đều biết Đại Mão hay làng Giữa- Trung Thôn là một đơn vị cơ sở lớn nhất trong
9 thôn thuộc xã Hoài Thượng huyện Thuận Thành. Hiện toàn thôn
có hơn 1000 hộ với gần 4000 khẩu sống tại địa phương ( Theo điều tra 374 năm
2015). Là một nơi đất chật, người đông, lại là nơi có nhiều cơ sở công cộng của
xã đóng tại địa phương như Trụ sở UBND xã (cũ);
trường Mầm Non, trường Tiểu học, trường THCS, Trạm xá xã và nhiều công
ty, doanh nghiệp đóng trên địa bàn…Về lịch sử, phong tục tập quán quê hương ta
có nhiều nét đẹp. Chính vì vậy nhiều nơi xung quanh đã cổ vũ, động viên gọi
làng Giữa là một làng Văn Hiến.
Nhưng Văn
hiến là gì thì nhiều người cũng còn khá lúng túng, giải thích khác nhau.
Bản thân tôi từ nhỏ cũng đã có ý thức tìm hiểu ý nghĩa của từ này. Có lần tôi
hỏi Cụ giáo Lê
Doãn Ưu thì cụ cũng không nêu định nghĩa mà chỉ giải thích: Làng
mình được thiên hạ suy tôn là làng văn hiến vì có nhiều người học tập đỗ đạt cao
từ xưa tới nay, có nhiều thuần phong mỹ tục; đặc biệt dân thôn đoàn kết, biết
bảo ban nhường nhịn nhau và đặc biệt là ít kiện cáo lên các cửa quan vì chỉ có
lợi cho quan lại, bản thân những người liên quan đều chịu thiệt.
Sau này, khi có điều kiện tìm hiểu thêm,
tôi được biết có rất nhiều định nghĩa về văn hiến.
Việt Nam từ điển của Lê Văn Đức (1970) định
nghĩa văn hiến là “sách hay và người tài”; theo nghĩa bóng là “sự tổ chức học
hành để tiến tới chỗ khôn khéo”.
Khổng Tử (551-479 TCN) từng nói đến văn hiến. Trong Luận ngữ (Bát dật) có câu: “[Họ không làm thế] vì văn hiến không còn đủ nữa. Nếu còn đủ, ta có thể viện dẫn làm chứng [cho lời ta].” (Văn hiến bất túc cố dã. Túc, tắc ngô năng trưng chi hĩ ).
Theo 1 tác giả người Pháp Legge hiểu văn hiến là kinh sách và người hiền (records and wise men). Có lẽ cả Legge lẫn Đào Duy Anh và Lê Văn Đức đều theo cách hiểu của Chu Hi (1130-1200) vì Chu Hi chú thích lời của Khổng Tử như sau: “Văn là kinh điển, sách vở; hiến là hiền tài.” (Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã).
Từ điển điện tử Từ bá (Đại học Bắc Kinh, 2006) đã loại bỏ yếu tố “người hiền, tài giỏi” ra khỏi nội dung văn hiến khi định nghĩa như sau: Văn hiến [wénxiàn] (document; literature): sách vở có ý nghĩa lịch sử hoặc có giá trị nghiên cứu (hữu lịch sử ý nghĩa hoặc nghiên cứu giá trị đích thư tịch )
Lịch sử văn học thành văn của Việt Nam chỉ có thể tính từ thời Bắc thuộc, tức là lúc Sĩ Tiếp (sử Việt thường chép là Sĩ Nhiếp, 187?-266) truyền bá Hán học tại Giao Chỉ, và Ngô Sĩ Liên (thế kỷ 15) bảo “nước ta trở nên một nước văn hiến bắt đầu từ đó”. Tính từ đời Hán (206 TCN – 220 CN) đến nay, nếu theo định nghĩa của Từ bá như dẫn trên, bề dày văn hiến của ViệtNam
chỉ có khoảng hơn 2.000 năm lịch sử mà thôi.
Khổng Tử (551-479 TCN) từng nói đến văn hiến. Trong Luận ngữ (Bát dật) có câu: “[Họ không làm thế] vì văn hiến không còn đủ nữa. Nếu còn đủ, ta có thể viện dẫn làm chứng [cho lời ta].” (Văn hiến bất túc cố dã. Túc, tắc ngô năng trưng chi hĩ ).
Theo 1 tác giả người Pháp Legge hiểu văn hiến là kinh sách và người hiền (records and wise men). Có lẽ cả Legge lẫn Đào Duy Anh và Lê Văn Đức đều theo cách hiểu của Chu Hi (1130-1200) vì Chu Hi chú thích lời của Khổng Tử như sau: “Văn là kinh điển, sách vở; hiến là hiền tài.” (Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã).
Từ điển điện tử Từ bá (Đại học Bắc Kinh, 2006) đã loại bỏ yếu tố “người hiền, tài giỏi” ra khỏi nội dung văn hiến khi định nghĩa như sau: Văn hiến [wénxiàn] (document; literature): sách vở có ý nghĩa lịch sử hoặc có giá trị nghiên cứu (hữu lịch sử ý nghĩa hoặc nghiên cứu giá trị đích thư tịch )
Lịch sử văn học thành văn của Việt Nam chỉ có thể tính từ thời Bắc thuộc, tức là lúc Sĩ Tiếp (sử Việt thường chép là Sĩ Nhiếp, 187?-266) truyền bá Hán học tại Giao Chỉ, và Ngô Sĩ Liên (thế kỷ 15) bảo “nước ta trở nên một nước văn hiến bắt đầu từ đó”. Tính từ đời Hán (206 TCN – 220 CN) đến nay, nếu theo định nghĩa của Từ bá như dẫn trên, bề dày văn hiến của Việt
Hán-Việt
từ điển của Đào Duy Anh (1932) định nghĩa văn hiến là “sách vở và nhân vật tốt trong
một đời”.
Một số từ điển khác thì định nghĩa:
Một số từ điển khác thì định nghĩa:
+ Văn hiến: truyền thống văn hóa lâu đời. Ví dụ trong câu: VN tự hào bốn ngàn năm văn hiến.
+ Văn hiến: Truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp của dân
tộc.Ví dụ trong câu: Đất nước ngàn năm văn hiến.
Theo Viện từ điển học và bách Khoa toàn
thư VN:
+ Văn hiến : Truyền thống văn hóa tốt đẹp và lâu đời.
Chu Hy đời Tống bên Trung Quốc thì chú thích 1 câu trong sách Luận ngữ như sau:” văn là điển tịch; hiến là tốt đẹp tài giỏi” như vậy văn hiến nguyên nghĩa là văn chương sách vở hay, bảo tồn truyền thống văn hóa lâu đời.
Chu Hy đời Tống bên Trung Quốc thì chú thích 1 câu trong sách Luận ngữ như sau:” văn là điển tịch; hiến là tốt đẹp tài giỏi” như vậy văn hiến nguyên nghĩa là văn chương sách vở hay, bảo tồn truyền thống văn hóa lâu đời.
Tạm
bỏ qua việc tìm hiểu ý nghĩa của từ văn hiến, đi sâu vào lý giải tại sao làng
Giữa ( Đại Mão hay Trung Thôn) được suy
tôn là đất văn hiến, tôi đồng tình với lý
giải của cụ giáo Ưu giải thích tại sao làng Giữa được các vùng xung quanh khen
là một làng Văn hiến: vì quê ta là một làng cổ có từ lâu đời, có nhiều truyền
thống tốt đẹp, nhiều thuần phong mỹ tục, người dân đoàn kết, có văn hóa, ứng xử
nhân văn.
Hiện nay, trong phong trào xây dựng
nông thôn mới, làng ta đã có nhiều đổi thay về cơ sở vật chất hạ tầng, vẫn giữ
được nhiều nét đẹp về phong tục tập quán; song do dân số đông hơn 4 ngàn người,
do ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường, còn nhiều vấn đề làm người dân
chưa vui. Đạo đức có những biểu hiện xuống cấp, môi trường còn chưa thật sạch
đẹp; ăn uống còn hơi xô bồ, mê tín dị đoan bắt đầu nẩy nở…
Với tình hình nói trên, trong phong trào xây dựng nông thôn mới
hiện nay, thực hiện cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư cũng đồng nghĩa với việc
tổng kết phát huy những giá trị, truyền thống tốt đẹp của một làng đã từng được
suy tôn là làng văn hiến.
Theo suy nghĩ cá
nhân, làng Giữa có nhiều truyền thống đẹp, tập trung vào một số nội dung sau:
1-Truyền thống cần cù lao động; biết lao
động khéo và có hiệu quả.
Từ xa xưa, người làng Giữa đã chịu thương chịu khó,
lao động hết mình san đồng lấp trũng để có đồng ruộng phì nhiêu như ngày nay.
Từ khi có đê đại hà trước làng,ruộng đất của làng bị chia làm đôi,trong và
ngoài đê, người dân canh tác cả hai khu, giỏi cấy lúa nhưng cũng giỏi cả trồng
màu. Sau này, đất chật người đông, dân làng còn đi xa cả chục cây số xuống tận
Đồng Vàng, Nhiễm Dương, ra tận Thanh Khương khai phá đất hoang cấy lúa.Ở trong
đồng bãi thì cấy lúa tái giá, trồng ngô, đỗ, đay, mía, cà rốt, trồng dâu nuôi
tằm, trồng các loại chuối, rau để ăn và cung cấp cho thị trường xung quanh.
Bao năm lũ lụt, chống chọi với thiên nhiên;
ngoài làm ruộng người làng còn biết dệt vải, làm thợ mộc, thợ xây, và nay lại
giỏi may vá, kinh doanh đủ nghề…Khái quát lại, từ xưa tới nay người làng Giữa
đều chịu khó làm, làm khéo tay nhiều
nghề và biết tính toán, có hiệu quả kinh tế. Vì vậy nói chung kinh tế
của các gia đình, cơ sở hạ tầng của làng khá hơn các làng xung quanh. “Nhàn cư
vi bất thiện”, còn phải phụ giúp cha anh, thanh thiếu niên ít chơi bời lêu lổng
hơn nơi khác.
2-Truyền thống ham học; có nhiều người học
khá giỏi.
Chịu
khó lao động chân tay, người làng còn chăm chỉ học hành.Từ xa xưa, các cụ
thường cho con học dăm ba chữ “ để làm người” nhưng đã có nhiều người học hành
đỗ đạt khá, văn võ toàn tài. Có thể kể đến các cụ:
+ Cụ Nguyễn Đình Khuê,
(cụ là con rể Trạng nguyên Nguyễn Lượng Thái), sinh năm 1533, năm 36 tuổi đỗ Đệ
tam giáp đồng tiến sĩ khoa Mậu Thìn niên hiệu Sùng Khang 3 (1568) đời vua Mạc
Mậu Hợp, làm quan đến chức Hiến sát sứ.
+ Cụ Trịnh Đức Vận sinh năm 1646, năm 38 tuổi đỗ Đệ
tam giáp đồng tiến sĩ khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa 4 (1683) đời vua Lê Hy
Tông, làm quan đến chức Giám sát ngự sử.
+ Cụ Lê Doãn Chất , là cụ tổ 4 đời của tiến sĩ Lê Doãn
Giản, Lê doãn Thân làm quan đến chức Đông các đại học sĩ. làm quan thời Hậu Lê,
giữ chức nghi điển ( chuyên coi về việc thi cử, soạn đề và làm chánh chủ khảo
các kỳ thi hương; giám khảo các kỳ thi hội. Học trò của cụ có đến hơn 50 cử
nhân, trong đó có nhiều người thành đạt .
+ Cụ Lê Nho Khoa hương nguyên sĩ vọng (2
lần thủ khoa) làm quan đến chức Đại phu lễ bộ tả thị lang ( Bộ trưởng bộ
Lễ, tương đương Bộ giáo dục hiện nay )
Cụ là người thông minh trí dũng toàn tài;
tính tình khoan dung độ lượng.Cụ đỗ hai lần thủ khoa vào thời Hậu Lê. Khi nhà
Lê mới đánh tan nhà Mạc, ở vùng Phú Thọ bấy giờ giặc giã nổi lên nhiều vô
kể, chúng thi nhau cướp bóc, ức hiếp dân lành, các quan cai trị tại địa phương
cũng phải bỏ chạy. Triều đình cử cụ Lê Nho Khoa về trấn ải ở vùng Đà Giang, Lâm
Thao. Cụ đã dùng mưu bắt sống tướng giặc Nông Quận, giải về Triều.
Vua Lê vui mừng khen ngợi cụ, ban cho mũ
áo, lụa tiền và 6 chữ “ Văn thần trung, vũ thần tại”.Nhân dân trong vùng
coi cụ như một vị cứu tinh.
+ Cụ Lê nho Thạc ( Hiến Hồ ) làm quan đến chức Hiến
phó sát sứ Sơn Nam (
như quan đốc học tỉnh Nam Hà).
Cụ
là một trong những thầy giáo của quan Bảng nhỡn Lê Quý Đôn nổi tiếng. Cụ
cũng là thầy dạy của 2 tiến sĩ lê Doãn Giản, Lê Doãn Thân.
+ Cụ Lê Doãn Giản sinh năm 1715, năm 29 tuổi đỗ
Đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743) đời vua Lê
Hiển Tông, làm quan đến chức Hữu thị lang bộ Công, Hành sơn nam, Thừa chính sứ.
+ Cụ Lê Doãn Thân sinh năm 1720, năm 29 tuổi đỗ
Đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 9 (1748) đời vua Lê
Hiển Tông, làm quan đến chức Thừa chính sứ, Tứ xuyên bá.
+ Cụ Lê Quýnh ( 1750-1805): Cụ
là quan nhà Lê Trung hưng, còn có tên là Lê Doãn Hữu,
con trai của tiến sĩ Lê Doãn Giản. Hiện ở Hà Nội có đền thờ cụ và
các trung thần đời Lê.
+ Cụ Đỗ Trọng Vỹ sinh năm Kỷ Sửu (1829), đỗ cử nhân
khoa Giáp Tý, đời vua Tự Đức 17 (1864 –đồng môn với quan Tam nguyên Yên Đổ
Nguyễn Khuyến và ông nghè Dương Khuê), làm quan đến chức án Sát sứ các tỉnh
Thái Nguyên, Cao Bằng. Khi thực dân Pháp xâm lược Bắc Kỳ, cụ cáo bệnh về ở ẩn,
nhưng được mời ra giữ chức Đốc học tỉnh Bắc Ninh, chính cụ là người đề cao nền
văn hiến xứ Kinh Bắc và truyền thống hiếu học khoa bảng của nước nhà. Cụ là người cho di dời Văn Miếu tỉnh Bắc Ninh từ núi Thị Cầu
về núi Phúc Đức năm 1893 và hưng công xây dựng lại Văn Miếu hàng tỉnh này.
Cụ cũng là người cho dựng 12 tấm bia đá “Kim bảng lưu phương” ghi danh gần 700
vị đỗ đại khoa của xứ Kinh Bắc. (Theo Gia phả họ Đỗ, cụ là người chủ trương xây
Văn Chỉ ở tổng Thượng Mão và một số công trình khác ở Thuận Thành).
Hiện ở Thành phố
Bắc Ninh có một con đường mang tên cụ, nối từ đường Lý Thái tổ vào trường
Chuyên Bắc Ninh (cũ)
Sang thời đại mới, làng cũng có nhiều người sớm đi học và
tốt nghiệp đại học như các ông Nguyễn Đình Thướng, Lê Doãn Bối, Lê Doãn Yển, Lê
Nho Nùng v.v… đều có những đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội của
quê hương và tỉnh huyện…
Vì có nhiều người chăm chỉ học tập rèn luyện, trong làng đã có hàng mấy
trăm người có Bằng Đại học, Thạc sĩ. Có những Tiến sĩ thời mới như Lê Đình Đạt, Lê Đình Tự, Vũ Huy
Hưng…( chưa kể đến các thành viên họ Đỗ xa quê).
Có một bài báo gần đây nói về quê
hương ta gọi đây là “quê thầy, đất thợ”. Kể ra cũng đúng vì làng có
hàng trăm người đi dạy học.Trong khoảng hơn 200 các thầy cô giáo người
Đại Mão đã và đang dạy học ở địa phương và các vùng miền khác ở các cấp PT và
ĐH, có nhiều thầy
cô giáo làm công tác quản lý lâu năm như các thầy Lê Nho Bảo,
Lê Doãn Đằng, Đỗ Trọng Diệp, Lê Đình Nghiễn, Nguyễn Hữu Kim, Lê Nho Tài, Lê Nho
Thu, Lê Doãn Cự, Lê Nho Nhị, Lê Thị Hường , Lê Thi Trang, Lê Thị Năm, Nguyễn
Hữu Thử, Trịnh Đức Khái, Lê Nho Thấm, Nguyễn Hữu Chiến, Nguyễn Thị Phương Viên,
Nguyễn Hữu Chế, Nguyễn Hữu Nghị, Lê Nho Thắng...Có nhiều thầy giáo dạy giỏi
như Lê Nho Tỳ, Trịnh Đức Khanh, Lê Nho Ánh….Thầy giáo Lê Nho Nùng đã từng
làm GĐ Sở GD, thầy Lê Đình Thanh làm Trưởng phòng, các thầy giáo Lê Đình Ngạn,
Trịnh Đức Khanh, Lê Nho San, Nguyễn hữu Triết, Nguyễn Hữu Thanh, Lê Đình Hưng
đã và đang làm cán bộ quản lý bậc THPT. Số GV cấp 3 người làng Giữa có thể đủ
dạy 1 trường THPT, giáo viên trường TH, THCS xã đa số là người làng.
Ngay trong Hội CGC - hội viên là cán bộ công
nhân viên ngành GD đã về hưu, chi hội Đại Mão đã có gần 80 người trên tổng số 100
người trong toàn xã HT và có thể gấp đôi số hội viên CGC của một số xã trong
huyện.
Con em
Đại Mão được phổ cập giáo dục vào loại rất sớm
so với địa phương và cả nước. Khi tôi đang là HT trường THCS xã nhà, số HS bỏ
học khi đang học cấp II rất ít so với các thôn trong và ngoài xã. Hiện đa phần
các cháu thanh niên đều TN THPT, nhiều cháu được học và TN các Trường Cao đẳng
và Đại học trong cả nước, một số cháu đã được đi học tại nước ngoài. Số trúng
tuyển vào ĐH, CĐ hàng năm tương đối nhiều (có lẽ chỉ sau xã Mão Điền)
Làng ta là một trong số ít làng trong
tỉnh có Thư viện Thôn, hiện có trên 5000 cuốn
sách và nhiều báo, tạp chí. Thư viện do ông Lê Nho Thu làm CN, các ông Thu,
Khái, Khoái làm thủ thư hàng tuần trực 3 buổi chiều cho độc giả đọc và mượn trả
sách. Trang blog Thư viện giữa làng Đại Mão – Trung Thôn
(Thuviengiualang.blogspot.com) do ông Lê
Đình Ngạn phụ trách có thể coi là một tờ báo điện tử của làng. Từ tháng 3 năm
2013 đến nay có gần 7 vạn lượt người, không những ở trong làng, trong nước mà
còn có nhiều người đang sống ở nước ngoài truy cập để theo dõi tình hình quê hương làng xã.
Làng Đại Mão nay cũng có nhiều cố gắng
trong việc động viên con em học tâp. Trong đó có việc xây dựng quỹ khuyến học. Có quỹ của làng, các dòng họ cũng đều
có quỹ. Quỹ của nhiều họ có hàng 3-5 chục triệu đồng trở lên như Lê Doãn,
Nguyễn Đình, Lê Nho, Lê Đình...để động viên con cháu học tập.
Như vậy, làng ta từ trước tới nay có
phong trào học tập tốt, đã có nhiều cụ đỗ đại khoa; hiện nay con cháu cũng
nhiều người có trình độ cao, đi dạy học nhiều và có nhiều người giữ những vị
trí quan trọng trong các cơ quan nhà nước cũng như các doanh nghiệp như các ông
Đỗ Thắng Hải Thứ trưởng Bộ Công Thương, Lê Nho Nùng GĐ Sở GD; Nguyễn Hữu
Thướng, Lê Đình Thanh Chủ tịch UBND huyện, và nhiều người quê làng Giữa khác
nữa.
3-Truyền thống hăng hái tham gia chiến đấu
bảo vệ đất
nước quê hương.
Thời kỳ trước và sau cách mạng tháng
Tám, làng ta đã có nhiều người tham gia, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của
dân tộc.
+ Cụ Đỗ Thúc Phách sinh 1895-mất 1957, đỗ Cử
nhân khoa Ất Mão 1915. “Là một nhà giáo dạy ở Trường Pháp Việt ở Nam Định,
Phủ Lạng Thương, sau xin từ chức về kinh doanh thực nghiệp và lập đồn điền. vào
bậc Đại phú ở Bắc Việt, theo kháng chiến ở Việt Bắc” ( Trích Gia phả họ Đỗ
).
Cụ là người xây nhà thờ cụ cử Đại ( con
trai của cụ Đỗ Trọng Vỹ ) ở Đại Mão. Sau này khi cải cách ruộng đất ngôi nhà bị
tịch thu, rồi đêm ra chợ Giữa làm nhà kho của Hợp tác xã và hiện nay được dỡ về
làm nhà tiền tế ở Đình Làng.
Ở Bắc Giang, sau khi
Nhật đảo chính Pháp, nhiều đảng phái phản động tranh chấp quyết liệt với Việt
Minh ( Quốc dân đảng, Đại Việt, Việt Nam Quang Phục hội…) , tất cả
đều tìm đến những nhà giàu có để khai thác, lôi kéo,dọa dẫm; nhưng cụ chỉ tin
vào Bác Hồ, tin vào Việt Minh. Đi theo Bác Hồ từ năm 1947, cụ hiến toàn bộ
ruộng đất cho cách mạng ( cỡ 1000 héc ta- 2700 mẫu bắc bộ ) ở đồn điền thuộc
Hiệp Hòa – Bắc Giang. Cụ được cách mạng giao làm Hội trưởng hội Việt Hoa thân
thiện, nhà cụ là nơi thường trú của các cơ quan đầu não của tỉnh, thường xuyên
có 1 tiểu đoàn vệ quốc của tỉnh Bắc Giang đóng chốt. Khi mặt trận Liên Việt
(….) ra đời, cụ là ủy viên trung ương.
Tháng 3 năm 1948 , Bác
Hồ đã gửi thư khen ngợi cụ và các con của cụ. Trong thư có đoạn :” Cụ
và các cháu thật xứng đáng Toàn gia kháng chiến- Phụ tử giới binh”.
+ Cụ Lê Nho Thành tức
Lê Nho Bổng nguyên là một lính khố đỏ ( lính chính quy –
thời Pháp bắt đi, như là nghĩa vụ quân sự, khác với lính khố xanh- địa
phương quân). Sau khi Nhật đảo chính Pháp, cụ được giác ngộ cáh mạng và tham
gia Khởi nghĩa Bắc Sơn ( tháng 9 năm 1940) . Hy sinh năm 1944 tại Bắc Sơn.
Trong cuốn "Đại Mão làng quê văn hiến", phần ghi về Danh sách các
liệt sĩ của quê hương, tên ông được xếp đầu tiên.
+ Cụ Lê Minh Nghĩa tức Đỗ Nguyên Thành. Cụ tham gia
phong trào học sinh yêu nước ở trường Bưởi. Năm 1945 tham gia cướp chính quyền
ở Bắc Ninh. Được cử làm ủy viên quân sự, chính trị viên tỉnh đội; Phó đoàn đại
biểu Bộ Tổng Tư lệnh trong Ban liên lạc thi hành Hiệp định Đình chiến Giơnevơ (
Hội nghị Trung Giã 1954), Đại tá -Trưởng ban Ban Biên giới của Chính phủ. Cụ
được thưởng Huân chương Độc Lập hạng nhất, an táng tại Nghĩa trang mai Dịch Hà
Nội.
+ Cụ Nguyễn Hữu Chấn : Ngay sau cách mạng Tháng
Tám, cụ được cử làm Chủ tịch Ủy ban Lâm thời thôn> Trong Kháng chiến,cụ được
cách mạng cử làm Trưởng tề để đấu tranh hợp pháp với địch, ủng hộ kháng chiến. Cụ
là bố đẻ của 2 liệt sĩ là Nguyễn Hữu Tẩm và Nguyễn Hữu Hựu. ( Ở Đại Mão
còn có gia đình cụ Trịnh Đức Khu có 2 con là Liệt sĩ Chống Mỹ là Nguyễn Hữu
Trọng và Nguyễn Hữu Đỗ )
+ Cụ Đỗ Trọng Tứ : một trong những thanh niên yêu nước
tham gia các phong trào của Việt minh trước CM tháng 8 cùng các cụ Nguyễn Hữu
Biên,Lê Nho Hiện,Nguyễn Đình Địch, Nguyễn Hữu Nhạn, Nguyễn Đình Gia, lê Doãn
Nhung, Lê Doãn Bội, Lê Đình Thỉnh, Đỗ Tuấn Anh, Nguyễn Đình Tài, Nguyễn Hữu
Tài,Nguyễn Hữu Nhạn…Nguyễn Thị Thanh,Đỗ Kim Thiện,Đỗ Thị Kiệm…
Là đảng viên đầu tiên
của xã, ở Chi bộ ghép 3 xã ( Hoài Đức, Thượng mão và Mão Điền) thành lập năm
1947; trực tiếp phụ trách xã Thượng Mão . Năm 1948 cụ bị bọn giặc ở bốt Hồ và
bọn gián điệp chỉ điểm bắt ngay tại nhà. Bọn giặc tra tấn dã man cả cụ
ông, cụ bà nhưng các cụ đều không khai báo gì về việc làm của mình và tình hình
cơ sở. Cuối cùng bọn giặc bắt cụ đi tù ở bốt Hồ, Kẻ Sặt, Hà Nội… vẫn không khai
thác được gì ở cụ. Do bị tra tấn nhiều, đói khát, bệnh tật… sức khỏe rất yếu
địch thả cụ về, cụ lại tiếp tục hoạt động kháng chiến chống Pháp cho đến tháng
10 năm 1954 cụ mất. Sau 50 năm, tháng 5 năm 2014, cụ được nhà nước truy tặng
danh hiệu Liệt Sĩ.
+ Cụ Nguyễn Hữu Biên :
tham gia phong trào cùng các cụ nói trên. Được kết nạp vào Đảng trong những năm
gay go nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi làm Bí thư, Chủ tịch xã, sau
đó được điều động lên chiến khu. Sau hòa bình, cụ về công tác tại Tổng Công ty
Xuất Nhập khẩu Lâm Thổ sản NAPOLIMEX ( Bí thư Đảng bộ ) - Bộ Ngoại Thương. Cụ
là bố BS Nguyễn Hữu Phê ( Tuấn Anh ) - Khoa Hồi sức Bệnh viện Quân Đội 108- Hà
Nội. Cụ mất năm 1971.
+ Cụ Nguyễn Đình Gia : tham gia phong
trào cùng các cụ nói trên. Trong quá trình hoạt động, cụ bị bắt và đầy đi tận
Miền Nam .
Sau này công tác tại huyện Thuận Thành ; làm Phó Phòng Lương Thực huyện.( đã
mất )
+ Cụ Đỗ Mạnh Khang tức trần Vũ, trưởng thành
trong phong trào sinh viên, Chỉ huy trưởng quân sự huyện Gia Bình, hy sinh năm
1950. ( Xem thêm về thơ của tác giả Trần Dực –số 13 trên trang Thư viện này)
+ Cụ Đỗ Tuấn Anh tức Trần Dực sinh năm Đinh Mão
1928. Lúc nhỏ, ông được học ở trường Bưởi, đỗ Trung học rồi Trung học
Chuyên Khoa. Tháng 12-1944 tham gia Đoàn học sinh cứu quốc của Mặt trận Việt
Minh tại trường, đi bộ đội tháng 2 năm 1947, vào Đảng CS tháng 8 năm 1947.
Cụ từng giữ các chức vụ : Chính trị viên Trung đội 3, Đại đội Nghĩa quân
(1947); Phó ban Chính trị Tỉnh đội BN ( 1948-1949); Phó ban Tuyên huấn Bộ Tư
lệnh Liên Khu Việt Bắc (1950); Trưởng ban Tuyên huấn Quân Khu Đông bắc
(1955); Chính ủy Trường Quân chính Quân Khu Đông bắc (1956-1957);
Tư lệnh Pháo Binh Quân Khu Đông Bắc ( 1964-1967); Tham mưu trưởng Pháo Binh mặt
trận Tây Nguyên ( 1971-1972) và Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải Quân Nhân
dân Việt Nam.
Cụ Trần Dực từng được đào tạo ở nước ngoài ( Tốt
nghiệp Pháo Binh cao cấp Thẩm Dương TQ 1959- Học viện hải Quân Lêningrat ( Liên
xô 1979 ) ; sử dụng được các ngoại ngữ Pháp, Trung Văn, viết tiếng Nga và khá
thông chữ Hán. Là người dịch Bắc Ninh Địa Dư chí của cụ Đỗ Trọng Vĩ, Âm
chất diễn nôm của cụ Đỗ Dư… ông có nhiều công sức về việc biên dịch gia phả của
dòng họ Đỗ Đại Mão, hậu duệ của Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật ( An Bình ).
+ Cụ Lê Đình Thỉnh sinh năm 1932, vào bộ đội chính
quy vào loại sớm trong làng, đã tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Ở binh chủng
phòng không, ông tham gia chỉ huy cùng đơn vị đánh máy bay Mỹ trong trận Điện
Biên Phủ trên không năm 1972. Về hưu với quân hàm Trung tá, cụ có ý thức tốt
tham gia xây dựng địa phương.
+ Cụ Đỗ Ngọc Châu Con trưởng của cụ Đỗ Thúc Phách,
nhân sĩ yêu nước nói trên.Sinh năm 1918, đỗ Tú Tài văn chương phần II từ trước
CM tháng 8, thời kháng chiến 9 năm đã làm Giám đốc Nha Thông tin tuyên truyền
Khu Việt Bắc, biên tập viên Tạp chí Học Tập ( Tạp chí Cộng Sản sau này). Hòa
bình lập lại, cụ về học tại Trường Nguyễn Ái Quốc rồi làm chủ nhiệm khoa Sử Đại
học Tổng hợp Hà Nội. Sau khi về hưu, cụ vẫn là một báo cáo viên có uy tín về
những vấn đề quốc tế của Ban Khoa Giáo Trung ương.
+ Cụ Lê Đình Kỉnh Tham gia hoạt động từ thời KC chống
Pháp, ủy viên thư ký UBHC xã, sau đó đi công tác tại Công ty Vật Tư . Cụ đã
từng được thưởng Huy hiệu Hồ Chủ tịch, và được tặng Huân, huy chương Kháng
chiến.
Cụ Kỉnh và cụ Tính là
hai anh em ruột; là con cụ Vũ Thị Cấp cũng
được Hội đồng chính phủ tặng Bằng Khen về thành tích nuôi dấu cán bộ, bộ đội
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
+ Cụ Trịnh Đức Tần Tham gia hoạt động từ
thời KC chống Pháp đi bộ đội , về nghỉ hưu với cấp bậc Trung tá, về còn
tham gia phong trào Người Cao tuổi tại địa phương.
+ Cụ Nguyễn Đình Địch tham gia hoạt động từ
thời KC chống Pháp, là chủ tịch xã một số năm, cán bộ Nông trường Tam Thiên Mẫu
(mới mất).
+ Cụ Lê Đình Tính Tham gia hoạt động
trong phong trào thanh niên thời KC. Vào bộ đội năm 1953, rồi chuyển sang Công
an nhân dân vũ trang, rồi chuyển ngành sang làm cán bộ ngoại thương. Năm 1965
tái ngũ, cụ tham gia quân tình nguyện đi chiến đấu tại chiến trường Lào. Đã
từng là Trưởng ban Tổ chức cán bộ Bộ Tham mưu Quân khu Thủ đô. Về hưu
1983 với hàm Thiếu tá.
+ Cụ Nguyễn Đình Tài tham gia hoạt động từ thời
KC chống Pháp,là chủ tịch xã một số năm, chuyển sang làm cán bộ Ty Giao thông
thời chống Mỹ, là bố đẻ của Liệt sĩ Nguyễn Đình Nha.
Phát huy
truyền thống quê hương, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và sau hòa
bình thống nhất đất nước, có nhiều người cũng có cố gắng, phấn đấu
trong mọi lĩnh vực công tác đạt những kết quả đáng biểu dương:
+ Ông Lê
Đình Đạt Tiến sĩ, được phong quân hàm Thiếu tướng tháng 12 năm
2011, hiện là Cục trưởng Cục Tiêu chuẩn Đo lường chất
lượng - Bộ Quốc phòng.
+Ông Nguyễn
Hữu Tụy Đại tá ( đã nghỉ hưu)
+ Ông Nguyễn Đình Long Đại tá ( đã nghỉ hưu)
+ Ông Nguyễn Đình Long Đại tá ( đã nghỉ hưu)
+ Ông Lê
Doãn Huy Đại tá, tư lệnh pháo binh Quân khu I (đã nghỉ hưu)
+ Ông Nguyễn
Hữu Tuệ Đại tá, Trường Quân Chính Quân khu 1 ( đã nghỉ hưu)
+ Ông Lê
Nho Tụy Đại tá, Công an tỉnh Bắc ninh ( đã nghỉ hưu)
+ Ông Đỗ
Trọng Khuê Đại tá Tiến sĩ,
+ Ông Nguyễn
Đình Luyện Đại tá Thạc sĩ, Cục phó Cục cơ yếu
+ Ông Lê
Nho Thiết Đại tá, Học viện Kỹ thuật quân sự.
+Ông
Lê Đình Thịnh Đại tá – công tác tại Cục Đo lường BQP
+ Ông
Nguyễn Đình Mến Đại tá, Học viện Lục quân
+ Ông Lê
Doãn Thanh Thượng tá
+Ông Trịnh
Đức Hinh Thượng tá
+Ông
Lê Doãn Lược Thượng tá ….
Có nhiều người khác đã là sĩ quan phục vụ
trong quân đội và công an ( các ông Lê Doãn Yển, Lê Doãn Lương, Lê Doãn Thanh,
Nguyễn Đình Luyện, Trần Hữu Mạch, nguyễn Viết Phan… đã nghỉ hưu nhưng vẫn tích
cực đóng góp cho quê hương. Hiện có nhiều anh chị em khác còn đang phục vụ trong
các lực lượng vũ trang.
Trong cuộc Kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
và các cuộc chiến bảo vệ biên giới hoặc đi làm nghĩa vụ quốc tế, Đại Mão đã gửi
nhiều người con ra trận trực tiếp cầm súng hoặc phục vụ chiến đấu như đi
dân công, thanh niên xung phong…Có 47 người được công nhận
là Liệt Sĩ và cấp Bằng Tổ Quốc Ghi Công ( Chống Pháp 16 người, sau chống Pháp
31 người ). Có 3 Mẹ được tặng DH mẹ VNAH.
4-Truyền thống đoàn kết dân thôn.
Trong
những lúc khó khăn, người làng Giữa giúp nhau tận tình trong cơn hoạn nạn. Có những lúc đói kém, còn lũ lụt hoặc đi làm
đồng xa hàng chục cây số, mọi người đều vui vẻ giúp nhau. Khi nhà có việc như có đám hiếu, đám cưới,
làm nhà… thậm chí có lúc cháy bếp, cháy nhà… họ đương, xóm giềng đều quan tâm
chăm sóc. Trong làng ít có chuyện đánh nhau, cãi vã xảy ra.Không có chuyện cậy
tổ to, họ lớn chèn ép nhau. Khi có tranh chấp mọi người đều nhịn nhường, công
tác hòa giải được Tổ công tác Mặt trận, Hội PN làm tốt. Không có nhiều vụ việc
phức tạp xảy ra ở địa phương.
Ban Công tác Mặt trận thôn, dưới sự
chỉ đạo của chi bộ, với sự cộng tác của BQL thôn đã cùng với các đoàn thể phối hợp tổ chức nhiều
cuộc vận động đạt kết quả tốt , nhất là cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
5-Truyền thống khiêm nhường, sống có trách
nhiệm với cộng đồng làng xã. Có nhiều phong tục đẹp cần giữ gìn.
Tôi nhớ cụ Lê Nho Lãng có
1 bài thơ chữ Hán nói về làng Giữa, có nói về một truyền thống của làng : đó là
đức tính khiêm tốn của người Đại Mão:
Trung Thôn kim cổ nhân khiêm nhượng
Đại Mão hào hoa vạn thế anh.
Được thụ hưởng sự dạy dỗ của cha anh, con cháu Đại Mão thường có tính khiêm tốn, ham hỏi hiểu
biết, rất ít thanh niên ngổ ngáo, khó bảo; rượu chè , trai gái bê tha và mắc
các tệ nạn xã hội.
Trong gia đình, con cháu thường ngoan ngoãn, biết nghe, “ biết sợ” ông bà, bố mẹ,
anh chị em. Ở trong thôn, biết kính trên nhường
dưới và tuân theo những quy định của xóm, của làng.
Thanh niên Đại
Mão không ngại tham gia phục vụ việc làng ( đám tang, lễ hội…) và các
công việc đột xuất hoặc được làng xã huy động. Nhiều Hội đồng niên, đồng học
góp công góp tiền tham gia tu bổ tôn tạo đình chùa và các công trình công cộng,
cùng các bậc bề trên giáo dục và chăm sóc thiếu niên.
Mọi gia đình
trong làng đều tích cực tham gia đóng góp tu bổ Đình, Chùa. Gần 100% các
gia đình có hảo tâm xây dựng Đình và Cổng Đình, xây dựng tôn tạo các Điếm Xóm,
Giếng hoặc Ao Xóm; trong đó có nhiều người sống xa quê. Nhiều người ủng hộ mua
ghế đá, trồng cây tại Đình, Nghè, Chùa, tại khu công cộng từng ngõ xóm làm cảnh
quan Đại Mão ngày càng đẹp thêm.
Người lớn Đại Mão thường không nói tục nói
bậy. Chính vì vậy trẻ em cũng ít nói bậy, đánh cãi
chửi nhau mà nói năng lịch sự văn minh hơn các nơi khác. Cụ thể trong
gia đình, tôi sống với mẹ già hơn 103 tuổi
trong gần 70 năm mà chưa nghe cụ nói tục một lần nào. Tôi vẫn thường nhắc các con cháu nhớ để học tập các cụ.
Nhiều cụ trong làng còn thích trồng cây ở các khu công cộng, lấy bóng mát cho đời.
Những người già trẻ hôm nay của làng, khi ngồi nghỉ mát dưới tán lá cây xanh
đều nhớ tới hình ảnh các cụ Vũ Huy Ngoạn,
Lê Đình Hứa, Lê Nho Trụng… đã trồng nhiều cây xanh và học tập các cụ trồng thêm
nhiều cây góp phần làm cho thôn xóm thêm xanh mát.
Khi địa phương tổ chức các cuộc vận động, thu gom các loại Quỹ như Quỹ
Đền ơn đáp nghĩa, Quỹ vì Người nghèo, Quỹ Vì trẻ em, Quỹ Nhân đạo, Quỹ Khuyến
học… mỗi xóm có hàng chục người tích cực tham gia đi vận động, thu gom
quỹ. Gần như 100%
các gia đình vui vẻ tham gia ủng hộ các
loại Quỹ. Mặc dù số hộ và số dân đông, trong nhiều cuộc vận động thôn ta
đã hoàn thành và vượt mức chỉ tiêu xã giao cho.
Ở Đại Mão còn nhiều phong tục đẹp, đặc biệt
là tục mừng thọ; hội làng…Nhiều năm lãnh đạo địa phương đã lãnh đạo nhân dân tổ
chức tốt những hoạt động này, làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng
phong phú. Kính già mến trẻ, Tôn sư trọng đạo cũng là nét đẹp của quê hương ta.
Kính thưa các vị đại biểu!
Trải qua hàng mấy trăm năm, người dân Đại Mão
đã vật lộn với thiên nhiên, chống thù trong giặc ngoài; đã cùng nhân dân mọi
miền quê khác xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng nhau xây dựng những phong
tục tập quán đẹp của quê hương làng Giữa. Đến nay Đình Làng, nhà thờ họ Lê Doãn
được công nhận là Di tích Lịch sử văn hóa, chùa Sùng Ân của làng ngày một khang
trang. Nhiều năm, làng được công nhận là Làng Văn hóa. Nhiều truyền thống được
xây dựng từ ngàn xưa nay còn giữ được như tôi đã nói ở trên. Nhưng địa
phương ta và trong từng gia đình vẫn còn những tồn tại, điểm yếu phải suy nghĩ tìm cách khắc
phục…
Vì
vậy tôi đề nghị:
1-Tập thể lãnh đạo thôn, các đoàn thể, dòng họ và nhất là Chi
hội Người Cao tuổi tổ chức những cuộc hội thảo, đánh giá, tổng hợp những
truyền thống quý báu của làng, trên cơ sở đó làm tốt công tác tuyên truyền,
giáo dục người dân và con cháu niềm tự hào là người con của quê hương, mỗi
người cần và phải tham gia đóng góp giữ gìn, phát huy những tuyền thống tốt đẹp
đó.
2-Tổ chức thực hiện nghiêm túc Quy ước làng văn hóa.Bổ xungnhững
phụ lục cần thiết
Thôn Đại Mão đã từng có Quy ước, và
gần đây có bổ xung một Quy ước mới. Nhưng theo tôi, 1 số nội dung còn chung
chung, 1 số mục như những lời khuyên người dân nên thế này thế kia chứ chưa nói
rõ người dân được làm gì và cấm, không được làm những gì.Việc thực hiện Quy ước
cũng chưa được nghiêm túc mặc dù có cả một ban duy trì thực hiện Quy ước. Vì
vậy trong thời gian tới cần tổ chức thực hiện tốt hơn, nhất là việc tổ chức ma
chay, cưới xin theo nếp sống mới. VD: nên động viên các đám hiếu chôn cất theo
hình thức hỏa táng hoặc “ đào sâu chôn chặt”, dừng hẳn việc cải táng bốc mả.Tổ
chức tốt hơn việc xây mộ tại nghĩa trang theo quy ước.
Tổ chức đăng ký kết hôn gọn, tránh lãng phí tiền
bạc thời gian, nhân lực…Quản lý tốt hơn các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng ở Chùa, Đình sao
cho nhà nghèo không phải chạy đua với nhà giàu làm một số việc không cần thiết.
Cần xây dựng thêm những “phong tục”
mới như đến thư viện đọc sách, ủng hộ sách cho thư viện. Đọc, viết văn thơ; sưu
tầm lịch sử và cộng tác viên với “ báo điện tử của làng”…
3-
Tiếp tục quy hoạch,
xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất, đời sống văn hóa
Cần tham gia với lãnh đạo xã, bổ xung diện tích đất
đai và các cơ sở vật chất phục vụ cho sinh hoạt cộng đồng, vui chơi giải trí
cho người già, trẻ em nói riêng và nhân dân
toàn thôn nói chung.
4-
Xây dựng chế tài
thích hợp để xử lý thích đáng những hành vi vi phạm quy ước của thôn
Từ khi có quy ước làng văn hóa tới nay, chúng ta chỉ
có động viên nhưng chưa có việc xử lý vi phạm. Xử lý vi phạm như thế nào? Mỗi
loại vi phạm xử ra sao? Ai đứng ra tổ chức xử lý, chưa có cơ chế rõ ràng. Vì
vậy thôn ta cần quy định về việc tổ chức xử lý vi phạm
để răn đe giáo dục chung. Ví dụ phạt tiền, nhắc nhở trên hệ thống truyền thanh của
thôn, không ủng hộ khi gia đình có việc cần sự giúp đỡ của cộng đồng…
Kính thưa các đại
biểu…
Vì còn dành thời gian cho người
khác phát biểu, mặc dù muốn nói nhiều hơn, tôi vẫn phải xin tạm dừng tại đây.
Xin cám ơn các đại biểu đã chú ý lắng nghe.
Xin chúc phong trào xây dựng đời
sống kinh tế văn hóa của thôn ta ngày càng phát triển, quê hương ngày một giàu
đẹp văn minh.
Xin chúc các đại biểu mạnh khỏe và mỗi
người đóng góp ngày một nhiều hơn cho gia đình, quê hương thân yêu của chúng
ta!
LÊ ĐÌNH
NGẠN
Chi hội CGC
thôn.
Cám ơn bạn về bài viết. Mời bạn ghé qua website ủng hộ mình nhé Những quan niệm sai lầm phổ biến về việc học
Trả lờiXóa