ĐẤT VÀ NGƯỜI ĐẠI MÃO-TRUNG THÔN ( 5 )
LÊ NHO
LÃNG
ĐẤT VÀ NGƯỜI ĐẠI
MÃO -TRUNG THÔN kỳ 5 giới thiệu bài viết của ông LÊ NHO LÃNG (ở xóm 2 Đại Mão) giới thiệu cho lớp trẻ những hiểu biết về một Di
tích Lịch sử Văn hóa nay đã mất : Văn Chỉ làng Đại Mão.
Văn Chỉ đã
bị giặc Pháp dỡ năm 1950 để lấy gạch, gỗ
đi làm bốt, gần đây thôn Đại Mão có chủ trương phục dựng lại . Mời các bạn đọc
bài viết để hiểu thêm làng xóm quê mình từ những ngày xưa…
Chuyên mục mong được tiếp tục đăng các bài viết, hình ảnh của quý độc giả về mảnh
đất và con người quê hương. Bài viết xin đánh máy và gửi cho ông Lê Đình Ngạn, địa chỉ nganhttt@gmail.com
%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%
VĂN CHỈ LÀNG TÔI
Gần đây, người dân Đại Mão
nhận được một tin vui: Chi
bộ và Lãnh đạo Thôn chuẩn bị cho phục dựng lại Văn Chỉ Làng. Những người già chúng tôi vui lắm! Thế là
hơn 60 năm từ khi bị giặc phá không còn dấu tích, nay Văn Chỉ chuẩn bị sống lại cùng với lớp
trẻ trong công cuộc xây dựng quê hương.
Theo tác
giả Vũ Hiệp : Các làng quê Việt Nam
trước năm 1945 đều có Văn Chỉ để thờ các Thánh Nho, Tứ phối, Thập Triết cùng
các vị tiên Hiền, tiên Nho và các cụ trong làng có chữ nghĩa, phẩm hàm Văn Giai
(quan Văn), do triều đình phong cấp cho (như Thị Lang, Hồng Lô Thái Bảo, Hàn
Lâm, Bát phẩm, cửu phầm Văn Giai, Bá Hộ …) mà có công với làng, đã khuất. Chỉ
trừ các làng Công Giáo theo Tây, theo đạo Chúa thì không có đình, Miếu, Chùa,
Am, các Từ Đường. Làng theo Đạo, không có Văn Chỉ.
Việc thờ Khổng
Tử, Hiền Triết, Tiên Nho ở Văn Chỉ làng xã đã có từ thời Trần (1225 – 1400).
“Năm Canh Tuất (1070) tháng tám, mùa thu, Vua Lý Thánh Tông sai lập văn Miếu,
đắp tượng Khổng Tử Chu Công và Tứ Phối. Vẽ tượng Thất Thập Nhị Hiền (72 Hiền
Nho). Bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái Tử đến đấy học” (Đại Việt Sử Ký T.T/ Ngô Sĩ Liên/ Bản dịch, tập I, trang 234 NXB –
KHXH/ Hà Nội 1967). Từ triều Anh Tông (1293 – 1314) nước ta đã đánh thắng
đuổi xong giặc Nguyên Mông. Triều đình có nhiều Nho gia giúp Vua trị nước, bớt
chịu ảnh hưởng Phật học và các Tăng Sĩ như thời Lý và 4 Vua đầu nhà Trần. Có
lẽ, ở 1 số làng có người Nho học đỗ đạt trọng Nho học, đã bắt đầu lập Văn Chỉ
thờ Thánh Khổng và Tiên Nho để tỏ lòng kính mộ Đạo Nho.
Nhưng sự phổ biến
lập Văn Chỉ ở các làng xã có học thức Nho giáo phải từ 38 năm làm Vua của Lê
Thánh Tông (1460 – 1497) và các Vua kế tiếp (Hiến Tông, Túc Tông, Uy Mục, Tương
Dực) mới thịnh hành. Vì lúc đó nước ta phát triển cực thịnh về giáo dục Nho học
và mở nhiều khoa thi nhất. Từ phủ, huyện cho đến thôn xã đều có trường dạy học.
Sĩ tử đua nhau đi học, đi thi.
Vậy
Văn Chỉ là gì? “ Văn là người có học vấn,
văn vẻ, lời văn”, “Chỉ là cái nền đất, nơi quê quán” (Xem HV Tự Điển/ Đào
Duy Anh, trang 162 và 536). “Văn Chỉ là
nền Tế Thánh Khổng ở các hương thôn lập nên. Còn của nhà Vua lập ra gọi là Văn
Miếu” (trang 536) ở Kinh Đô.
Tác giả Vũ Hiệp còn cho rằng: “ Văn
Chỉ rất quan trọng đối với các thôn xã có ít nhiều Nho sĩ. Huống chi các làng cổ có từ triều Trần
như Đông Ngạc, Yên Quyết (Cót, Vòng), La Khê, Tả Thanh Oai, Thanh Liệt, Kim Lũ,
Kim Đôi, Bát Tràng, Lạc Đạo, Tam Sơn, Phù Đổng, Nghĩa Lư, Hoài Bão (làng Bịu),
Vọng Nguyệt (làng Ngọt), Mộ Trạch, Đan Loan (Luân), Hoạch Trạch (Vạc) … và các
làng Tiến sĩ ở huyện Chí Linh, huyện Thanh Lâm, Tứ Kỳ, Trường Tân (Gia Phúc,
Gia Lộc), huyện Đường hào Gia lâm. Cùng các làng cổ ở Sơn Nam (Hà Đông, Hà Nam,
Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình) và Thanh Hoá, Nghệ An … càng về sau,
thời Lê Sơ (1428 – 1527) thời Mạc (1527 – 1592), Thời Lê Trịnh (1593 – 1788),
thời Nguyễn (1802 – 1945) tại những nơi trên sự tôn sùng Nho học lên cao độ. Trừ
các làng quá nghèo khổ, ít văn hóa như các làng chài lưới, diêm điềm (ruộng
muối), sơn lâm (làm nghề rừng) và các làng sắc tộc thiểu số ở Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ thì ít có điều kiện theo Nho học do kinh tế và trình độ nhân văn thấp.
Đa số các làng xã đó không có Văn Chỉ hay Văn Từ. Nhưng các làng có văn hoá cao
như đã kể ở trên, đều thiết lập Văn Chỉ để tôn sùng Đạo Nho. Ngay cả các làng
trung bình ở Bắc Bộ thưở đó, hàng năm chỉ có vài người theo đuổi Nho học; mấy
trăm năm học chữ Thánh Hiền, mà chỉ đỗ được 1, 2 ông Sinh Đồ, Tú Tài, vài ông
Nhị Trường, dăm ông Khóa ở mỗi làng. Nhưng người ta cũng dựng lên Văn Chỉ. Thật
ra, nói và thờ Khổng Tử, Tiên Nho, đúng sự thật là khuyến khích con em trai trẻ
cố học để đỗ đạt, ra làm quan. Mà xưa kia, chỉ có thi cử mới là con đường làm
quan, trị nước (trừ quan võ chuyên việc binh). Mà “một người làm quan cả Họ, cả
làng được nhờ”.
Phan Kế Bính (1875 – 1921)
đã viết về từ Văn Chỉ, trong sách Việt Nam Phong Tục Phụ
chép:Việt Nam Phong Tục (trang 802-803)
VĂN TỪ, VĂN CHỈ:
Mỗi làng có một văn từ
hoặc văn chỉ. Đàn lộ thiên gọi là văn chỉ, có lợp mái gọi là văn từ. Văn từ,
văn chỉ để thờ riêng những bậc khoa hoạn trong làng. Có làng hiếm văn học, chưa
có người hiển đạt, thì thờ Đức Khổng Tử, gọi là Tiên Thánh Sư, để làm chủ
trương cho việc văn học trong làng.
Các nơi thờ riêng những bực khoa hoạn, đại để chia làm ba
hạng:
Hạng nhất là những người đỗ đại khoa (Tiến sĩ) và những
người làm quan từ tam, tứ phẩm trở lên, thờ ban giữa;
Hạng nhì là những người đỗ trung khoa (Cử nhân) và những
người làm quan từ lục, thất phẩm trở lên, thờ ban hữu;
Hạng ba là những người đỗ tiểu khoa (Tú tài) và những
người làm đến bát, cửu phẩm, thờ ban tả.
Đến khi tế tự thì đem cả hào mục tổng lý và các thầy đồ
truyền giáo trong làng vào phối hưởng.
Nhưng nhiều nơi chỉ trong riêng về đường khoa mục, hẽ có
đỗ mới được liệt tự, còn người làm quan dẫu đến nhất nhị phẩm mà không có chân
khoa mục, cũng không được dự, chỉ đến lúc tế mới đem vào phối hưởng mà thôi.
Mỗi năm tháng hai, tháng tám tế hai kỳ, gọi là xuân thu
nhị định. Có nơi cả làng tế, có nơi chỉ người có chân trong hội tư văn mới được
dự tế.
Năm nào có khoa thi thì cả sĩ tử trong làng, hội lại làm
lễ kỳ khoa, hoặc cả làng làm lễ, để cầu cho hương thôn được nhiều người hiển
đạt.
Khi đi xong, ai được đỗ thì lúc về phải có lễ ra lễ văn
chỉ để tạ ơn tiên hiền. . ---------------------------------------------------
Năm Canh Dần 1950, tôi ( Lê Nho Lãng ) được nghe cụ Lê Nho Quán, một lão nho trong làng kể
chuyện về Văn Chỉ làng ta. Cụ Lê Nho Quán sinh năm Mậu Tuất 1898, tuy không
phải là khoa bảng nhưng nhờ hồng phúc của tổ tiên, cụ cũng có chân trong Tư văn
hội. Nên biết thêm, nhiều
làng trọng người biết chữ, đã tham gia vào Hội Tư Văn (người có văn chương =
làng Nho, người có học thức) để được dự Tế Xuân Thu Nhị Kỳ và ra giữ việc làng.
Nếu có công đức, liêm chính, lúc chết được thờ ở Văn Chỉ. Đó là danh vọng của
thôn xóm xưa. Bởi thế, thưở xưa, chỉ trừ nhà nghèo đói kiệt xác còn các nhà bần
nông, trung nông, thợ thủ công đều có nuôi con trai cho theo họ chữ Thánh Hiền.
Dù học được vài chữ Chi, Hồ, Giả, Dã (như A, B, C) cũng mát lòng hả dạ. Được
Văn Chỉ lễ là mừng rồi! Ai có con cho đi học đều mong sau này con được giỏi chữ
nghĩa, nếu chẳng đỗ đạt thì cũng có chữ nghĩa để đọc được văn khấn gia tiên
trong ngày kị hàng năm và đọc được tờ Văn tự mua bán ruộng đất, nhà cửa (Nay
gọi là Bằng Khoán).
Tôi nghĩ, không
hẳn như tác giả Vũ Hiệp nhận xét ở đoạn trên, ở huyện ta và các vùng phụ cận, gần như làng nào cũng có
Đình, có Chùa, nhưng Văn Chỉ không phải thôn, tổng nào cũng có. Về Văn Miếu,
ngoài Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, chỉ có một số ít tỉnh có Văn Miếu ( cấp
tỉnh) như Hải Dương, Bắc Ninh…Văn Miếu hàng huyện cũng vậy. Còn Văn Chỉ không
phải thôn nào cũng có. Nhờ câu chuyện của cụ Lê Nho Quán, tôi mới có cơ hội
hiểu thêm về Văn Chỉ quê mình.
Cụ Lê Nho Quán
kể : Làng Đại Mão có Văn Chỉ
từ thời Lê Trung Hưng, thời xưa các cụ hay gọi là Miếu Thánh.
Miếu Thánh Đại
Mão được xây trên nền con Quy ( gần khu Nghĩa trang Liệt Sĩ xã Hoài Thượng ngày
nay), có tả long hữu phượng; long mã án hà đồ; thật là nơi có thế đất thiên
nhiên kỳ thú. Là một công trình kiến trúc theo kiểu “ nội công ngoại quốc”, thượng điện là một ngôi nhà 3 gian, có tượng
Đức Khổng Tử, trên treo một bức hoàng phi “ Vạn Thế Sư Biểu” ( thầy của muôn
đời). Bẩy gian hạ điện (tiền tế) có hoành phi 3 chữ “ Văn Lễ Tại”; là nơi các
quan hành lễ đức Khổng Tử.
Hai bên còn có 2
dẫy giải vũ để bia ghi tên các bậc khoa bảng trong làng. Dãy bên phải là nơi để
bia ghi tên các bậc Đại khoa, bên trái đề tên các bậc Trung khoa. So với các
làng như Thư Đôi (…), Vọng Nguyệt thì số đỗ Đại khoa không bằng, nhưng các bậc
Trung khoa thì họ nào cũng có.
Trải qua nhiều
cuộc biến thiên, Miếu Thánh cũng có nhiều thay đổi. Năm Quý Sửu 1913, trời làm
một trận hồng thủy, đê Đại hà bị vỡ cách Miếu Thánh độ hơn nửa cây số, 3 gian
Thượng Điện bị lũ cuốn trôi, tượng Đức Khổng Tử không còn, nhiều tấm bia đá bị
hư hại.
Sau khóa thi năm
Ất Mão
1915, khóa thi Nho học cuối cùng của thời phong kiến, làng di chuyển Miếu Thánh về cạnh Đình Làng, từ đó
đổi tên là Văn Chỉ. Do điều kiện kinh tế của làng lúc đó còn hạn hẹp do lụt lội
liên miên, làng phải bán một số chân Tư Văn để có kinh phí tu bổ văn Chỉ. Những
người mua tư văn cũng được gọi là quan viên ( quan viên mua); từ đó Văn Chỉ
làng chỉ còn là nơi tế các bậc tiên hiền tức là các bậc khoa bảng trong
làng.
o o o
Vậy Miếu Thánh –
Văn Chỉ làng tôi cũng như nhiều nơi khác, là nơi thờ Đức Khổng Tử và các bậc tiên hiền trong
làng , là công trình kiến trúc mang ý
nghia tôn vinh những người chịu khó học hành, đỗ đạt; động viên sự học của làng
với tất cả các thành viên trong địa phương từ thời Hán học . Một điều rất hay là: Văn Chỉ làng tôi cũng là nơi truyền bá chữ quốc ngữ cho những thế hệ dân cư về sau này.
Như nhiều người
đã đã biết: Chữ quốc ngữ mà chúng ta quen dùng hiện nay
vào đầu thế kỷ XX chưa được Nhà nước
phong kiến bảo hộ và người dân dùng nhiều.
Tham khảo thêm: Chữ Quốc ngữ, còn được gọi tắt là Quốc ngữ, là hệ thống chữ viết chính thức hiện nay của tiếng Việt. Hệ thống này
được xây dựng dựa trên chữ cái Latinh (cụ thể là trực tiếp từ chữ cái Bồ Đào
Nha) thêm các chữ ghép và 9 dấu phụ — 4 dấu tạo ra các âm mới, và năm dấu còn lại
dành cho thể hiện thanh điệu của từ. Hai loại dấu phụ có thể được viết cùng trên một
chữ cái nguyên âm.
Thời kỳ đầu
Chữ Quốc ngữ được phổ biến sâu rộng và định
chế vào khoảng thế kỷ 19 và 20 nhưng đã xuất hiện phôi thai từ lâu vào khoảng thế kỷ 16 khi các giáo sĩ Tây phương đầu tiên đến Việt Nam và giao tiếp với người Việt rồi vì nhu cầu học hỏi ngôn ngữ Việt (lúc đó còn dùng chữ Hán và chữ Nôm) để giao
tiếp với người bản xứ mà bắt đầu ghi lại bằng cách phiên âm tiếng Việt dưới
dạng chữ La tinh. Trước tiên là giáo sĩ Bồ Đào Nha dòng Phanxicô; kế đến là giáo sĩ Tây Ban Nha dòng Đa Minh[3] rồi dòng Tên. Sang thế kỷ 17 thì số văn tịch ghi lại dấu vết loại chữ này càng nhiều,
kèm theo những biến đổi hoàn chỉnh với ký hiệu thanh giọng thêm chính xác. Tên
tuổi những giáo sĩ đã tiên phong góp công trong việc hoàn chỉnh lối chữ này gồm
có Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa và Francisco de Pina.[4]
Giáo sĩ Đắc Lộ (tức Alexandre de Rhodes) người Pháp được coi là người có công nhiều
trong việc định chế chữ quốc ngữ qua cuốn tự điển phiên âm Dictionarium Annamiticum Lusitanum et
Latinum mà ông soạn và in ra năm 1651. Tuy là người Pháp nhưng ông lại dùng
tiếng Bồ Đào Nha trong cuốn tự điển cùng những đóng góp của tiếng Ý và tiếng Pháp. Soạn giả còn ghi rõ ông mượn dấu sắc, huyền, ngã từ tiếng Cổ Hy Lạp mà vẫn không đủ nên phải
thêm iota subscriptum (dấu nặng) và dấu hỏi để biểu lộ thanh giọng của tiếng Việt.[5].
So sánh ký hiệu thì âm nh theo tiếng Bồ; gi theo tiếng Ý; còn ph theo tiếng Cổ Hy Lạp.
Các văn bản Công giáo thời kỳ này là tài liệu ghi chép quan trọng về cách phát
âm của tiếng Việt cổ. Trong những tài liệu còn lưu trữ được là bản thảo
"Manescrito, em que se Prou a, que a forma do Bauptisma Pronunciada em
Lingoa Annamica he Verdadeira" do giáo sĩ Giovanni Filippo de Marini
(1608-1682)[6] người Ý thuộc dòng Tên, sang đến Đàng Ngoài giảng đạo năm khoảng thập niên 1650, thì lối viết chữ
Quốc ngữ ở giai đoạn đó như sau:[7]
Tau rửa mầi nhân danh Cha, ủa Con, ủa Spirite
Santo. Tau lấy tên Chúa, tốt tên, tốt danh, tốt tiếng, vô danh, cắt ma, cắt
xác, Blai có ba hồn bảy uía, Chúa Bloy Ba Ngôy nhẩn danh...
Thế kỷ 19
Một mốc quan trọng của chữ Quốc ngữ là cuốn
tự điển của giáo sĩ Jean-Louis
Taberd, in năm 1838, căn cứ vào những sửa chữa của Giám mục Bá Đa Lộc.[8]
Cuốn tự điển của Bá Đa Lộc được soạn từ năm 1773 đến 1815 thì hoàn thành, mang tên Dictionarium Annamatico-latinum nhưng chưa được in ra (bản viết tay nay còn
giữ ở Văn khố Hội Truyền giáo Paris). Trong khi đó tự điển của Taberd mang tên Nam Việt Dương hiệp Tự vị (tựa tiếng Latinh cũng giống như cuốn của Bá Đa Lộc là Dictionarium Annamatico-latinum) được in ở Serampore, Ấn Độ. Nó phản ảnh một biến chuyển quan trọng của tiếng Việt
trong khoảng thời gian giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 19. So sánh tự điển của Taberd
và De Rhodes thì âm "
" biến mất, thay thế
bằng âm "v" hoặc "b". Những âm "bl",
"ml", "pl", "sl", và "tl" cũng biến
mất, thay thế bằng "tr", "nh", "l",
"s". Dạng chính tả của chữ Quốc ngữ ở thời điểm này không khác mấy cách viết
ngày nay.

Cuốn tự điển có phần phụ lục tựa là "Lời Chúa Tàu và Người Annam vấn
đáp cùng nhau" (Dialogus Inter Unum Navis Praevectum et Unum
Cocincinensem), trong đó có đoạn như sau:[9]
- Ông đi viếng Quan lớn thì được song thói
nước nầy chẳng cho phép thăm đờn bà.
- Tôi cam lòng chìu theo quốc pháp, tôi chẳng
có ý làm đều gì nghịch cùng thói phép đất nầy, có tục ngữ rằng: nhập giang tùy
khúc nhập gia tùy tục.
Đọc qua, ngoài một số chữ khác biệt cách viết
nhưng ý đã rõ, không là trở ngại cho độc giả thế kỷ 21. Tuy nhiên vào thời điểm này phạm vi dùng chữ Quốc
ngữ vẫn hạn chế trong việc ghi chép của cộng đồng Công giáo. Ngoài ra đại chúng người Việt không dùng lối chữ
này.
Địa vị chính thức
Chữ Quốc ngữ trên chặng đường hơn 300 năm vẫn
không được công nhận là văn tự chính thức cho tới khi người Pháp xâm lăng,
chiếm lấy Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19. Ngày 22
tháng 2 năm1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị
định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ
Nho trong các công văn.[10]
Ngày 1 Tháng Giêng năm 1879 thì lại có lệnh
đòi các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ. Cũng năm đó chính quyền
Pháp đưa chữ Quốc ngữ vào ngành giáo dục, bắt đầu ở các thôn xã Nam Kỳ phải dạy
lối chữ này.[10]
Khi Gia Định Báo phát hành, tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt,
thì câu văn đã thêm phần mạch lạc, chính tả không mấy khác ngữ văn ngày nay ví
dụ như bản thông báo ngày 22 tháng 12 năm1888 sau đây:[11]
Sở Thuế Chánh Ngạch. Các người thiếu thuế...
đặng hay: các sổ phụ trong tháng Octobre 1888 thuế đất, thuế sanh ý, thuế ghe
biển, thuế ghe sông, cùng thuế thân đã lập theo phép để trong tay quan Kho Bạc
Sài Gòn và Chợ Lớn hay về việc thâu thuế. Bởi đó sức cho các người ấy phải y
theo hạn trong luật dạy mà đóng các món thuế biên trong sổ ấy, bằng không thì
phải cứ phép mà bắt buộc...
Thế kỷ 20
Sang thế kỷ 20 thì chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao
cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910.[12] Năm 1915 thì kỳ thi
Hương cuối cùng diễn ra ở Bắc
Kỳ mặc cho sự chống đối của giới sĩ phu. Ở Trung Kỳ thì đạo dụ của vua Khải Định ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28 tháng 12, 1918) chính thức bãi bỏ khoa cử và năm 1919 là năm cuối mở khoa thi ở Huế.[13] Chữ Quốc ngữ từ đó trở thành phương tiện diễn đạt duy
nhất của người Việt trong khi địa vị Chữ Nho và chữ Nôm càng mờ nhạt tuy chưa mất hẳn nhưng lui dần vào quá khứ.
Trong khi đó cũng có thành
phần theo Nho
học nhưng hiểu được giá trị của chữ Quốc ngữ và cổ động việc thâu nhận chữ Quốc
ngữ như là một cách nâng cao trình độ kiến thức đại chúng, canh tân xã hội,
thức tỉnh tinh thần yêu nước và huy động động lực phản kháng của người Việt
trước quyền lực của thực dân Pháp. Trong đó có
nhóm Đông Kinh nghĩa thục.[14] Việc theo học chữ Quốc ngữ
theo đó thì không chỉ là phương tiện đọc và viết mà còn hàm ý vận động chính
trị và vận mệnh dân tộc.[15]
Chữ Quốc ngữ qua những tác phẩm biên khảo, phóng sự, bình luận, du ký của những Nam Phong Tạp chí, Đông Dương Tạp chí, cùng một loạt tiểu thuyết và thơ mới của nhóm Tự lực Văn đoànvới tư
tưởng mới, phong cách mới cũng và nhiều tác giả khác đã chứng minh chức năng
toàn diện của chữ Quốc ngữ làm văn tự của người Việt để rồi sau năm 1945 các chính quyền kế thừa đều công nhận lối chữ này.
Vấn đề phiên âm
Phiên âm hay còn gọi là dịch âm tức là đọc và
ghi lại các từ ngữ không phải là tiếng Việt bằng các âm tiết có sẵn trong tiếng
Việt, có cách phát âm tương tự hoặc gần tương tự. Cho đến hiện nay vẫn tồn tại
tranh cãi quanh vấn đề khi nào cần phiên âm từ ngữ không phải là tiếng Việt
sang tiếng Việt, khi nào không cần, nếu phiên âm thì sẽ thực hiện như thế nào,
viết bằng chữ quốc ngữ ra sao.
Hiện tại có các tranh cãi chủ yếu như sau về
phương pháp phiên âm và cách ghi lại bằng chữ quốc ngữ các từ được phiên âm:
·
Có nhất thiết phải căn cứ theo cách đọc trong ngôn ngữ gốc của từ được
phiên âm để phiên âm sang tiếng Việt không? Nếu không thể tìm ra được cách đọc
trong ngôn ngữ gốc mà chỉ biết được một số cách đọc khác nhau trong một số ngôn
ngữ thì nên dựa theo cách đọc của ngôn ngữ nào?
·
Nên viết liền hay viết tách rời có dấu cách hay viết tách rời không có dấu
cách các âm tiết của một từ có nhiều âm tiết? Ví dụ như: nên viết là
"phốt-pho", "phốtpho" hay "phốt pho"? Nếu viết
liền thì làm thế nào để phân biệt các âm tiết, không bị đọc sai. Ví dụ như:
"Xuphanuvông" đọc là "Xu-pha-nu-vông" hay
"Xu-phan-u-vông"?
·
Với địa danh không phải ở Trung Quốc nhưng lâu nay được mọi người quen gọi
bằng tên gọi Hán Việt có cần dịch lại cho sát hơn với tên gọi trong ngôn ngữ
gốc không? Ví dụ như Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Đức vân vân.
·
Với những từ gốc Hán thì trường hợp nào nên phiên âm theo âm Hán Việt,
trường hợp nào nên phiên âm theo cách đọc trong tiếng Trung Quốc? Nếu phiên âm
theo âm Hán Việt nhưng không thể biết được từ cần phiên âm có âm Hán Việt là gì
thì sẽ phải dịch như thế nào?
·
Nếu từ cần phiên âm mang một thanh điệu mà tiếng Việt không có thì từ này
khi phiên âm sang tiếng Việt nên cho nó mang thanh điệu gì?
·
Tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu. Một từ trong tiếng Việt luôn luôn
phải mang một thanh điệu nào đó, không có từ không có thanh điệu. Nếu từ được
phiên âm không mang thanh điệu thì khi phiên âm sang tiếng Việt có thể cấp phát
thanh điệu tùy ý cho chúng được không? Nếu không thì nên mang thanh điệu gì?
Khuyết điểm
Thông thường mỗi chữ cái Latinh biểu thị một âm vị. Trong hệ thống chữ quốc ngữ có một số âm vị của tiếng
Việt được ghi lại bằng chữ cái nhị hợp và tam hợp, do hai, ba chữ cái ghép lại
mà thành.
So với hai loại văn tự ý âm từng được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam là chữ Hán và chữ Nôm, người đọc và viết chữ quốc ngữ gặp khó khăn hơn trong
việc phân biệt nghĩa của các từ đồng âm dị nghĩa vì các từ này hầu hết được
viết giống nhau, trong khi đó với chữ Hán và chữ Nôm, các từ đồng âm dị nghĩa
thường được ghi lại bằng những chữ khác nhau. Ví dụ như "bàn" trong
"bàn bạc" và "bàn ghế" nếu viết bằng chữ quốc ngữ thì đều
là "bàn", nếu viết bằng chữ Nôm thì chữ "bàn" trong
"bàn bạc" viết khác với chữ "bàn" trong "bàn
ghế".
Khoảng năm 1920
Văn Chỉ làng tôi có thể coi như một ngôi trường dạy chữ Quốc Ngữ. Người thầy
giáo đầu tiên là cụ Đỗ Kỳ người họ Đỗ trong làng.
Cụ Đỗ Kỳ là con
trai thứ ba của quan Đốc học Đỗ Trọng Vĩ. Thời Hán học, cụ đỗ Tú Tài 3 lần nên
còn gọi là cụ Tú Mền. Năm 1919,cụ Đỗ Kỳ được vào Huế học chữ
quốc ngữ. Sau đó về làm tổng
sư . Thời gian đó, công văn
do các quan trên truyền xuống hoặc ngay một giấy khai sinh có khi phải dùng cả
3 thứ chữ: Pháp, Hán và chữ quốc ngữ. Lúc đầu, phải đi vận động con em từng nhà
và bắt buộc các nhà chức trách địa phương phải đi học loại chữ này. Vì thế con
em các nhà chức trách đều đã đi học; như cụ Chánh Đền, một nhà Nho xuất sắc lúc
ấy cũng cho tất cả các con theo học chữ quốc ngữ. Các con của cụ Chánh sau này
có người đi dạy học như cụ Lê Doãn Ưu ( cụ giáo Hai), cụ Lê Doãn Bội sau là cán bộ ngành Nông Lâm, cụ Lê Doãn Yển đi học
trường cấp II,III Hàn Thuyên thời chống Pháp rồi đi Liên Xô học Đại học, sau đó
giảng dạy tại Trường Sĩ quan Pháo Binh.
Việc tuyển chọn
công chức địa phương cũng được sát hạch bằng chữ quốc ngữ. Một giai thoại kể
rằng, có dạo làng khuyết một chân thư ký,có hai người xin ra làm cho nên quan
trên phải kiểm tra học lực, trình độ. Hai người ngang sức nhau nên quan nẩy ra
một kế là cho kiểm tra toán.
Đầu đề như sau: Nhà thầy Lý có 3 con gà và 5 con vịt.
Hỏi nhà thầy Lý có tất cả mấy con?
Thí sinh thứ
nhất đặt bút viết ngay : 3 con + 5 con = 8 con. Quan lắc đầu cười!
Thí sinh thứ hai
không hiểu lắm về toán, cứ ngồi ngay như tượng. Sau nhờ một thầy Nho ghé tai
bảo: “ Dị chủng bất đồng cư”- thế là anh này viết ngay : 3 con gà + 5 con vịt =
3 con gà + 5 con vịt và đệ lên quan. Quan khen là tốt và cho anh thứ 2 này đắc
cử. Từ đó anh được gọi tên vui là “ Ông ký Vịt”.
o O o
Văn Chỉ làng tôi
còn là nơi tuyên truyền tư tưởng cách mạng thời kỳ Pháp thuộc, là nơi giác ngộ
để ra đời tổ chức Thanh niên, Thiếu niên Cứu quốc. Do thời cuộc, con người và thiên nhiên làm cho thay đổi, Văn Chỉ làng hiện không còn,
nhưng nền đất làm Văn Chỉ vẫn còn; sự học ở làng ngày càng phát triển dưới chế
độ mới.
Làng xã và từng dòng họ, từng gia đình ngày
càng quan tâm đến việc học hành của con em; công tác khuyến học, khuyến tài ở
thôn tôi ngày càng khởi sắc. Gần đây, làng có 3,4 người đã có học vị Tiến Sĩ ,
hàng mấy trăm người đạt trình độ cao học, cử nhân; trình độ Trung cấp nhiều
không kể hết, các cháu đều được học hết cấp III phổ thông, Thư Viện thôn được
thành lập, việc học Nghề được quan tâm.
Có được kết quả
ấy, là do có chế độ mới, và do người dân làng tôi luôn biết phát huy truyền
thống cha ông trong lao động, học hành.
Mong sao, Văn Chỉ
sớm được xây dựng lại, là nơi di tích ; giáo dục khuyến khích sự học của quê
hương để mỗi người dân đều ĐƯỢC VÀ PHẢI học tập suốt đời./.
Đại
Mão- tháng 5 năm 2013
LÊ NHO
LÃNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét