THƠ NGƯỜI LÀNG GIỮA ( 6 b )
LÊ NHO LÃNG
Thơ Người làng Giữa (6 B) xin giới thiệu bài phú
của tác giả Lê Nho Lãng - sinh 1930 - xóm 2 Đại Mão. Là nông dân một miền quê văn hiến, lúc nhỏ
ông được học chữ Hán một số năm.
Trong số những người già trong làng Giữa
hiện nay còn sống, ông có trình độ Hán học tương đối khá, thích làm và làm khá
nhiều thơ, nhiều thể loại : lục bát, song thất lục bát, thơ theo thể hát ca
trù, thơ Đường, kể cả thơ bằng chữ Hán.
Tìm hiểu thêm về thể
phú, người biên tập biết phú là một thể
loại văn học, không để ngâm mà chỉ để đọc, rất khó làm vì các cặp câu đều như
là câu đối.
Xin nói thêm: tác giả chưa hài lòng với bài phú này, với tình cảm yêu quê hương,
muốn để các bạn trẻ có cớ tìm hiểu thêm về nơi chôn rau cắt rốn của mình nên
ông viết bài phú này. Mời bạn đọc thưởng thức, có vấn đề gì cần trao đổi xin
phản hồi về biên tập ( gửi ông Lê Đình Ngạn- nganhttt@gmail.com)
Đại Mão địa linh nhân kiệt phú
Trung Thôn văn hiến ngàn năm
rạng rỡ đất Luy Lâu
Đại Mão thuần phong muôn thưở
lưu phương vùng Kinh Bắc.
Tích xưa:
Hai Bà khởi nghiệp,
Bách
tính hội thề
Đoạt
giáo Luy Lâu
Dẹp
tan Tô Định.
Dấu cũ còn đây:
Lũy Tiền,
Lũy Hậu
Hào trước
hào sau
Ngõ Quan, ngõ Giếng
Quán Tháp, quán Kê
Cửa Trắc, cổng Dinh
Tây Lai, Đông Khứ.
Lối dẫn Đường Cầu
Dải Cờ, Đống Trống.
Minh Đường dong vạn mã,
Thủy thế dong nhất chu.
Ngày nay:
Mảnh đất hiền lành vẫn còn in
dấu tích,
Khí thiêng ngùn ngụt luôn
tưởng nhớ tiền nhân.
Tráng tai đế vương cư, hữu kỳ
hữu cổ hữu mã bái long triều, viecj thiên địa hảo để phong thủy
Uất nhiên anh tuấn vực vi ky vi
quan vi lương đống thạch trụ tự hương đảng lập hồ triều đình.
Nhân tài như lá mùa xuân:
Tự Lý, Trần, Hồ
Đến Lê Mạc Nguyễn
Quốc Công : một vị,
Tiến sĩ : bốn ông.
Cử nhân : một đống,
Sinh đồ : vài xe.
Quan Sư , quan Thái đứng bậc tam công.
Bộ Lễ, bộ Hình vào hàng nhất phẩm.
Thăng trầm tuy đôi
lúc khác nhau
Trung nghĩa xem thời nào cũng
có.
Cụ Lê Quýnh gặp cơn Lê Mạt vong quốc nô vẫn giữ đạo tôi trung,
Quan Giáo Điều hận giặc ngoại xâm một cây bút cũng trở thành vũ
khí.
Từ ngày:
Lịch sử sang trang,
Việt Nam độc lập.
Giang San một dải hào hùng,
Đại Mão góp phần trí tuệ.
Cấp Bộ : vài ông,
Tướng quân : ba vị.
Viên sĩ :
hai ông,
Giáo sư : bốn suất
Tiến sĩ : hơn mười
Kỹ sư : một đống
Ba người đại sứ tùy viên
Nhiều vị chuyên gia cấp bộ.
Vụ, Sở năm người,
Phòng Ban không tính.
Cấp huyện số kê,
Trung Thôn cũng góp:
Bí thư huyện ủy vài ông,
Chủ tịch ủy ban ba vị.
Điểm qua
Cấp xã trong các thời kỳ
Trung Thôn góp nhiều chủ chốt:
Bí thư đảng bộ tám người,
Chủ tịch ủy ban mười vị.
Xem ra:
Kinh Bắc xưa nay nổi tiếng học
hành,
Đại Mão trước sau là nôi sư phạm.
Đốc học: hai ông,
Giáo viên : mười chục.
Ngày nay:
Việt Nam
hội nhập đẩy nhanh kinh tế thị trường.
Đại Mão phát huy tài năng ngành nào cũng có.
Tháng
Hai năm Ất Mùi ( 2015)
---------------------------------------------
Chú thích : 1- Qua khảo cổ được biết ở Đại Mão có nhiều di tích tương truyền có từ
thời Hán, Hai Bà Trưng ( xem thêm : Thử tìm nguồn gốc tên thôn Đại Mão của tác
giả Thập Nhị Nhân- Xóm Ngõ Làng của tác giả Nguyễn Hữu Kim)
2- Lũy
Tiền, Lũy Hậu, ngõ Quan, Ngõ Giếng, quán Tháp, quán Kê, cổng Trắc, cổng Dinh, Tây
Lai, Đông Khứ, Đường Cầu, dải Cờ, Đống Trống… là tên những địa danh có từ lâu
đời nay ở làng Giữa.
-
Lũy Tiền : Lũy trước
-
Lũy Hậu : Lũy Sau
-
Ngõ Quan, Ngõ Giếng: tên 2 ngõ trong
làng
-
Quán Tháp, quán Kê nơi trình giấy tờ,
xem thiên văn
-
Tây lai, Đông khứ : lối đến đằng Tây,
lối ra đằng Đông
- Thế đất của làng ( tương truyền xưa là doanh
trại của Hai bà ):
Minh Đường dong vạn mã,
Thủy thế dong nhất chu.
Theo binh pháp xưa:
doanh trại bao giờ cũng phải có cổng chính, cổng phụ( cửa Trắc là cửa bên, cổng
Dinh là cổng chính). Phải có đường tấn công hàng vạn quân tiến ta cùng một lúc
( minh đường dong vạn mã); có đường tiếp tế hậu cần, là đường rút lui, hiểm trở , có thể là nơi đất trũng,
có sông nhỏ ( Thủy thế dong nhất chu) – ( nhất chu : một con thuyền )
3-Tam
Công : 3 chức quan cao trong thời phong kiến ( Thái Sư, Thái Bảo, Thái phó).
4- Tráng tai đế vương cư, hữu kỳ hữu
cổ hữu mã bái long triều, việc thiên địa hảo để phong thủy
Uất nhiên anh tuấn vực
vi ky vi quan vi lương đống thạch trụ, tự hương đảng lập hồ triều đình.
Đây
là đôi câu đối ở Đình Đại Mão ( xem thêm : Đại Mão làng quê văn hiến )
----------------------------------------
THAM
KHẢO THÊM: ( ST )
Khuất Nguyên (cuối thế kỷ thứ IV, đầu thế kỷ
thứ III tr. TL) người nước Sở, bị gian thần dèm pha phải đầy đi Giang-nam, làm
thơ tỏ nỗi lòng và mong vua hồi tâm, đến khi hết hi vọng, bèn đâm đầu xuống
sông Mịch-la. Khuất Nguyên lưu lại tập Sở
từ gồm nhiều thiên, hay nhất
là thiên Ly tao.
Phú thoát thai từ Sở từ, rất thịnh từ đời Hán
(6). Phú là phô diễn, mô tả cảnh vật, tính
tình, phong tục... nói thẳng ngay vào việc muốn nói, không dùng tỉ dụ. Câu đặt
mấy chữ cũng được nhưng hai câu liền nhau phải đối nhau. Tuân Tử viết "Phú
vốn là phép hành văn nói thẳng điều gì muốn nói, sau dùng để tả cảnh vật, tâm
sự một cách du dương, diễm lệ, đôi khi có đối, có vần". Theo Lê Quý Ðôn,
những thể phú thường dùng đời Trần là thể Ly
tao hay Văn tuyển (7). Ðời Hồng-đức hay đùng thể Lý Bạch song quan đối nhau, 4 vần bằng xen kẽ
4 vần trắc. Thời nhà Nguyễn, từ 1832 dùng phú luật theo thể chế nhà Tống.
1 -
Lối ra đề làm phú. Vài lối hay dùng để ra đề mục xưa kia :
a - Lối bài luật : không hạn định chỉ 8 câu. Câu đầu
không vần rồi cứ mỗi vần phải 2 câu, từng đôi, có luật.
b - Lối phú đắc : lấy một câu trong kinh sử, thi ca cổ
nhân làm đề, có hạn vần. Thí dụ :"Phú đắc Việt điểu sào Nam chi ",
đắc "sào" (bài phú "Chim Việt đậu cành Nam ", lấy vần
"sào").
Ðầu bài
chỉ định những chữ phải dùng làm vần. Thí
dụ :"Ôn cố tri tân phú, Ri
đề tự vi vận" (= lấy
chữ đầu đề làm vần) là trong đề có mấy chữ thì dùng từng ấy vần, ở đây dùng 4
chữ "ôn, cố, tri, tân" làm vần ; nếu đề là "Ri đề vi vận"
(= lấy đề làm vần) thì lấy tất cả những chữ trong đề làm vần, tức là phải tính
cả chữ "phú", thành 5 vần (8).
2 - Thể loại. Phú có 2 thể :
a-
Phú cổ thể phát sinh từ cuối đời Chiến quốc, đến nhà
Hán rất thịnh hành ; chỉ vụ lời đẹp, đọc kêu, ít có sinh khí. Ðến thời Nam Bắc
Lư"ng triều thì phương Nam
phát sinh tư tưởng yếm thế, lãng mạn, lối văn biền ngẫu rất thịnh hành, người
ta chỉ cần hoa mỹ, không cần chú trọng đến đạo đức. Ðào Tiềm là thi nhân lỗi
lạc nhất. Ðời Thịnh Ðường, phong trào phục cổ nổi lên, bài xích phong trào ủy
mị. Châm ngôn của Hàn Dũ là "văn dĩ tái đạo" nghĩa là dùng văn để chở
đạo lý (9).
Phú cổ thể chia làm 2 loại :
- Thể Ly tao : "Ly tao" là bài thơ nổi
tiếng của Khuất Nguyên, viết để mong vua hồi tâm nghĩ lại. Ðây là bài thơ dài
đầu tiên ở Trung quốc, văn bóng bẩy, tình cảm sâu.
- Thể Văn tuyển : Lối văn trong tập Chiêu Minh Văn Tập của Thái tử Lương Duy Ma đời Lương
soạn (10).
b - Phú
Ðường luật thông dụng hơn Phú cổ thể, có quy luật nhất định. Ðến năm 978 mới
thi Tiến-sĩ bằng luật phú :
1 -Vần : Phú
độc vận là chỉ có một vần, liên vận là dùng nhiều vần, phóng vận là tùy mình chọn vần.
2 - Luật bằng trắc : Cuối vế trên dùng vần bằng thì cuối vế
dưới phải vần trắc.
3 - Cách đặt câu : Trong một bài phú liên vận cách đặt câu thường là :
Thoạt
tiên vài bốn câu tứ tự (mỗi vế 4 chữ) hoặc bát tự (mỗi vế 8 chữ, chia làm hai đoạn
bằng nhau). Thí dụ "Phú hỏng thi" của Tú Xương :
Tứ tự : Ðau quá đòn hằn,
Rát
hơn lửa bỏng !
Tủi
bút tủi nghiên,
Hổ
lều hổ chõng !
Bát tự : Nghiện chè nghiện rượu, nghiện
cả cao lâu,
Hay
hát hay chơi, hay nghề xuống lõng (= thuyền chở khách đi chơi).
Rồi đến
4 câu song quan, mỗi vế có
6,7 hay 8, 9 chữ. Thí dụ :
Năm
vua Thành-Thái mười hai,
Lại
mở khoa thi Mỹ-trọng.
Sau đó
vài câu cách cú, mỗi vế có
hai đoạn :
Thầy
chắc hẳn văn chương có mực, lễ thánh thăm giò,
Cô
mừng thầm mũ áo đến tay, gập người đoán mộng.
hoặc gối hạc , mỗi vế có 3 đoạn (trích Nguyễn
Công Trứ, "Hàn Nho phong vị phú") :
Áo
vải thô nặng trịch, lạnh làm mền nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu ;
Khăn
lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
- Có khi
cả bài đều đặt câu 4 chữ gọi là Phú
tứ tự.
4 - Bố cục. Cách sắp đặt các đoạn mạch trong
bài phú :
a - Lung là đoạn mở bài nói bao quát cả ý
nghĩa đầu bài.
b - Biện nguyên : nói rõ ý đầu bài, nguyên ủy, gốc
tích.
c - Thích thực : giải thích rõ ý nghĩa đầu bài.
d - Phu diễn : bầy tỏ cho rộng ý đầu bài.
e - Nghị luận : bàn bạc về ý nghĩa đầu bài.
f - Kết : thắt lại ý đầu bài (11).
Làm bài
phải tôn trọng niêm luật, quy tắc, lộ tư tưởng cao viễn song thận trọng, lời
đanh thép mà khiêm tốn, không quên tán tụng đương triều.
-------------------------------------------------------------------
-------------------------------------------------------------------
III. Về loại
thể, phú Việt Nam
Về loại thể,
phú Việt Nam
theo Phạm Đình Hổ là “sự pha tạp giữa phú thể đời Nguyên và đời Minh” [Ngã
quốc tứ lục, tắc nhân Nguyên, Minh chi thể nhi tạp tựu chi giả (Vũ Trung tùy
bút, quyển hạ, mục tứ lục văn thể)]. Theo chúng tôi, quan điểm này chỉ
thích hợp cho phú Việt Nam từ Lê sơ về sau, hoàn toàn không thể áp dụng cho Lý
và Trần. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, quyển 4, Thiên
Chương nói: “Nước ta thời Lý, thời Trần đối chiếu chính vào khoảng
thời Tống, thời Nguyên bên Trung Hoa. Hiềm một nỗi, sách vở ghi chép về văn hóa
bấy giờ sơ sót không tường. Tôi may cóp nhặt trong tập Kim thạch di văn
được vài chục thiên, thì thấy văn đời Lý phần nhiều dùng lối biền
ngẫu, lời văn văn hoa tươi đẹp, còn giống như thể văn đời Đường. Đến đời Trần
thì văn chỉnh tề lưu loát, đã giống khí phẩm người đời Tống”.
Như trên đã
nói, sau khi độc lập, Việt Nam
có xu thế độc tôn Phật giáo tảy chay Nho học. Tình trạng này kéo dài mãi đến
triều Lý Thái Tông mới phần nào khắc phục. Thế nên, Nho học đời Lý thực chất là
tàn dư của Nho học đời Đường được truyền vào Việt Nam . Triều Lý ở giai đoạn giữa và
cuối, tuy đã có ý thức trở lại tiếp thu văn hóa Trung Quốc, nhưng tư tưởng này
vẫn chưa thật rõ. Hơn nữa, thể văn phú tuy đã có mầm mống từ trung Đường, nhưng
đến Bắc Tống và mãi về sau vẫn chưa giành được vị trí chủ đạo, nói đúng hơn vẫn
chưa thay được luật phú trong vị trí quan trọng là khoa cử. Lê Quý Đôn trong Vân
Đài loại ngữ, quyển 3, phần Văn nghệ chép: “Nhà Đường
lấy từ phú chọn kẻ sĩ. áp vận không câu nệ thứ tự bằng trắc. Đầu đời Tống noi
theo đấy. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 3 (978), Vua mới hạ chiếu thi Tiến sĩ
bằng luật phú, dùng vận theo thứ tự bằng trắc, khi các quan chủ khảo ra đề vận
đều dùng tứ bằng trắc. Từ đó cách điệu mới chỉnh tề, mới thật khả quan, khả
thính.” Chế độ này được dùng trong khoa cử cho mãi đến cuối đời Nguyên mới
chuyển qua dùng cổ thể. Như vậy, khi mà triều Lý đã có nhu cầu học tập, thì từ
một đối tượng tương đương với mình, tức luật phú, ắt cũng không học tập được gì
nhiều. Về mặt khoa cử, hai triều Lý - Trần đều giống nhà Tống, dùng luật phú.
Chứng cứ là năm Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), đề phú dùng 8
vận: “đế, đức, hiếu, sinh, hợp, vu, dân, tâm”. Quy định này đến mãi khoa Giáp
Tý (1384) và chính thức là khoa Quý Dậu (1393) mới chính thức chuyển sang dùng
cổ thể. Điều này đúng như họ Phạm nói, đó là sự chuyển đổi theo phép thi nhà
Nguyễn mà thôi.
Điều cần xét
tiếp theo là phú đời Trần nên xếp vào loại nào ? luật phú hay văn phú ? Tại sao
lại xếp như thế ? Cứ theo quan điểm của Phạm Đình Hổ thì phải xếp phú thời Trần
vào cổ phú. Nhưng Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, quyển
4, Thiên Chương lại nói: “Văn phú triều Trần rất kỳ dị hùng
vĩ, lại lưu loát tươi đẹp, hơi giống vận điệu văn Tống”. ở đây chúng tôi đồng
quan điểm với họ Lê, giải thích là, tuy triều Trần dùng luật phú cử sĩ, nhưng
đương thời trong xã hội lại thịnh hành thể văn phú; điều này có phần tương tự
với đời Tống ở Trung Quốc, tức tuy Tống chế dùng luật phú trong khoa cử, nhưng
tiêu biểu cho Tống phú lại là văn phú, chứ không phải luật phú. Thực ra, phú
đời Trần khi xếp vào văn phú cũng chỉ có nghĩa tương đối, bởi rằng trong phú
đời Trần vẫn lưu lại không ít những yếu tố của luật phú. Thêm một điểm nữa là,
những gì mà chúng ta đã xét, chỉ đúng với phú chữ Hán, chứ hoàn toàn không
thích hợp với phú chữ Nôm. Lý do là phú chữ Nôm có rất nhiều đặc điểm khác xa
với hai thể vừa xét. Về mặt thể chế, phú Nôm có thể sánh với Hán đại phú về
trường độ và mức độ hoa mỹ. Điều này có nguyên nhân từ việc sử dụng tiếng Việt
để sáng tác. Nếu như các phú gia Việt Nam bị hạn chế nhiều mặt trong việc
dùng chữ Hán để sáng tác, thì việc dùng tiếng Việt có thể giải quyết được nhiều
điều. Phú Nôm thường là trường thiên, lời lẽ hoa mỹ, văn cú ly kỳ, những đặc
điểm này chỉ gặp trong Hán đại phú. Nhưng phú Nôm cũng không hoàn toàn là Hán
phú, do hoàn cảnh ra đời tương đối chậm về sau, nó cũng chú ý hấp thu nhiều đặc
điểm của các thể phú khác. Ví như chú ý đến vận luật, tính trôi chảy của câu
văn từ luật và văn phú.
IV. Phú Việt Nam trong tổng
quan so sánh với phú Trung Quốc
Phú Việt Nam với tư cách
là một thể tài tiếp thu từ phú Trung Quốc, thế nên về mặt đặc trưng, 2 loại này
cơ bản không khác nhau. Ngoài sự khác biệt không nhiều về mặt không gian, điểm
sáng tạo lớn nhất của phú Việt Nam là về mặt chất liệu, tức từ một chất liệu
đơn nhất là Hán tự, người Việt Nam đã vận dụng chính lời ăn tiếng nói của mình
để viết phú, tạo nên một thể đặc sắc với chất liệu đặc biệt - phú Nôm. Tiếng
Việt với tư cách một loại hình ngôn ngữ đơn lập với một lượng từ Hán Việt chiếm
khoảng 70% tổng lượng từ vựng, cả hai đều hết sức thuận lợi cho việc phát triển
của phú Nôm. Ngoài những điểm đã nêu, chúng ta khó tìm được những minh chứng ở
cho sự khác biệt giữa chúng.
Thời cổ, các
loại văn thể tùy theo công năng xã hội mà có địa vị cao thấp khác nhau. Cổ nhân
khi sáng tác văn chương đặc biệt chú trọng đến việc lựa chọn văn thể. Trong vô
vàn văn thể, phú thường được đặt ở vị trí tối cao. Điều này được biểu hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau.
Thứ nhất,
người sáng tác phú cần có thực tài, và cũng chỉ có phú mới biểu hiện được thực
tài của phú gia. Ngụy Thâu chuyện trong Bắc Tề thư chép:
“(Thâu) cùng Tế Âm Ôn Tử Thăng và Hà Gian Hình Tử Tài nổi tiếng đương thời,
người đời gọi họ là tam tài... Thâu thấy Tử Thăng không làm phú, còn Hình chỉ
có vài bài, thật không phải là người có tài về phú, nên thường nói: “Chỉ trong
sáng tác phú mới có thể thành đại tài. Trong các thể văn, ngoài phú ra, chỉ có
chương, biểu, bi, chí còn tạm tạm; ngoài ra tất cả chỉ là trò trẻ con, hoàn
toàn không đáng đề cập”. Quan điểm của Ngụy Thâu được đưa ra trên cơ sở tổng
kết kinh nghiệm của người xưa và người đương thời lúc đó, hậu nhân không một ai
dị nghị về điều này. Như thế có thể thấy rằng, thời cổ văn nhân phần lớn quan
niệm phú là loại văn thích hợp nhất để biểu hiện thực tài, và chỉ người có khả
năng viết phú mới được coi là đại tài.
Thứ hai,
trong sách vở cổ xưa, bất kể tổng hợp hay biệt tập, vị trí của phú đều đặt ở vị
trí đầu sách. Quan điểm “phú tiên ư thi” không chỉ thấy ở hầu hết các sách vở
Trung Quốc mà cũng đúng với điển tịch Việt Nam . Điều này một lần nữa chứng tỏ
vị trí của phú trong lòng người xưa là rất cao.
Thứ ba, vào
thời cổ người sáng tác phú có thể được phong quan tiến chức. ở đây có thể lấy
việc Đỗ Phủ hiến Tam đại lễ phú làm đại biểu. Đỗ phủ nhập kinh cầu sĩ, nhiều
lần ứng thí nhưng không đậu, lại thiếu người có quyền thế tiến cử, cùng đường
chỉ còn biết chầu trực ở Thái Thanh cung, thái miếu và đàn tế nam giao để tiến
phú; may được Huyền Tông thưởng thức, liền phong chức Đài chế Tập hiền Viện, từ
đó mới bước chân vào đường hoạn lộ. Ngày xưa văn nhân hiến phú, may mắn được
vua khen, đó là một việc hết sức vinh hạnh, nhưng cũng không ít người chịu sự
lạnh lùng từ phía vua chúa. Ví như Tiền Khởi trong Tặng Khuyết hạ Bùi Xá nhân
có câu:
“Hiến phú thập niên do bất ngộ,
Tu tương bạch phát đối hoa trâm.
Tu tương bạch phát đối hoa trâm.
(Hiến phú mười năm còn bất ngộ,
Thẹn đem bạch phát đối hoa trâm).”
Thẹn đem bạch phát đối hoa trâm).”
Những điều
nêu trên đây, trong sử sách Việt Nam , Trung Quốc ghi lại không ít,
tưởng rằng không cần phải liệt kê thêm. Vấn đề cần chú ý là, tại sao cổ nhân
lại đem phú đặt lên vị trí hàng đầu trong tất cả các văn thể? Từ bản thân phú
phải có đặc điểm gì mới làm cho cổ nhân trọng thị đến thế? Quách Thiệu Ngu khi
đánh giá vị trí của phú trong văn sử học Trung Quốc nói: “Trong văn học Trung
Quốc có một loại văn thể đặc biệt chính là “phú”. Văn học Trung Quốc về một
loại thể trước nay đều nhất quán chia thành 2 loại thi và văn, nhưng phú lại là
trung gian giữa 2 loại này, đã không thuộc về văn cũng không thể quy về thi.
Thế nhưng, đồng thời lại có một hiện tượng tương phản khác, phú vừa có thể gọi
là văn vừa có thể gọi là thi, trở thành một loại thể lưỡng thê trong văn học. ở
đây có nghĩa phú là loại văn thể tổng hợp của vận và tản văn. Phú gia muốn tác
phú vừa có cái tài của nhà văn và nhà thơ, điều này thời xưa rất được coi
trọng. Trong sự so sánh với các văn thể khác, phú gia trong quá trình trầm tư
cấu tứ hay vận từ cần đầu tư nhiều hơn, với một đại phú hoàn mỹ. Thời cổ, một
thiên đại phú có thể tốn 10 đến vài chục năm thời gian, bởi vậy một thiên đại
phú cũng giống như bộ từ điển chuyên đề hết sức đầy đủ và rõ ràng. ở Việt Nam,
Lê Thánh Tông để viết xong Lam Sơn Lương thủy phú, thiên phú dài nhất còn lưu
lại của Việt Nam cũng cần gần 30 năm (1461 - 1478).
Nhưng cổ
nhân sở dĩ trọng phú còn có một nguyên nhân quan trọng khác, đó là phú là sự
tổng hợp cao độ của văn học và học thuật. Như chúng ta đã biết học thuật cổ đại
đặc biệt coi trọng tính bác học, bình phẩm một con người cũng nhìn nhiều ở góc
độ học thuật đa năng. Các nhà nho xưa quan niệm: “nhất vận bất tri, nho giả chi
sỉ” (một vận không biết rõ, đó là nỗi nhục của nhà nho). Hậu nhân phần nhiều
tiếp thu quan điểm này, cho rằng “nho giả” phải là người không gì không biết,
không gì không thể. Trong tiểu thuyết chương hồi, khi hình dung một nhân vật có
tài, thường tán thán bằng câu: “trên thông thiên văn, hạ đạt địa lý, tam giáo
cửu lưu, chư tử bách gia, không gì không thông, không gì không hiểu”. Đối với
những người chuyên tinh nhất nghệ thì thường bị xem thường, dè bỉu, hoặc bị chê
là “điêu trùng tiểu kỹ” hoặc “chỉ biết một mà không biết hai”...
Phú tuy được
nhiều người xem trọng, nhưng vẫn không ít ý kiến bỉ thị, ví như cho rằng địa vị
phú gia không khác tên hề góp vui, tác dụng của phú “khuyến bách phùng nhất”,
hoặc phú là văn thể phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị... Chúng tôi
cho rằng, bất kể quan niệm nào đều có nguyên nhân sâu xa của nó, muốn hiểu, bắt
buộc phải đi sâu vào tìm tòi khám phá.
N.Đ.P
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét