CÁM ƠN ANH VINH NGHĨA
Cuối buổi chiều, sau một ngày oi nóng
cuối tháng 5, tôi rất vui.Vui vì sau đợt dài nắng nóng, chiều nay mọi người đã được
hưởng không khí mát mẻ, dễ chịu hơn. Vui vì chú em mang đến tận nhà cho tôi món
quà mà anh Nguyễn Vinh Nghĩa từ TP HCM gửi ra. Đó là tập thơ “ Tự sự “.
Anh là người Hà Nội gốc. Học phổ thông,
anh đã là cán bộ Đoàn, rồi cán bộ Thành Đoàn. Trong những năm chống Mỹ ác liệt, anh đã từng là lính lái xe
vượt Trường Sơn vận chuyển người, vũ khí từ miền Bắc chi viện cho chiến trường
miền Nam. Sau khi đất nước hòa bình, thống nhất anh chuyển sang công tác tại
Cục đo đạc- bản đồ. Sinh ra trong một gia đình gia giáo, trưởng thành trên đất
Cảng Hải Phòng, trải qua chinh chiến và nhiều năm sống tại thành phố Hồ Chí
Minh, anh là một con người từng trải, đa tài, sống thân thiện và có trách nhiệm
với người thân, bạn bè và đồng đội. Anh cũng là người ham mê thể thao, nhất là
môn thể thao xe đạp. Ngoài 70, hàng ngày anh vẫn đạp xe trên ba, bốn chục km.
Anh cũng từng có những chuyến “phượt” bằng xe đạp hàng trăm km ra miền Bắc,
miền Trung.
Cộng đồng người làng Đại Mão tại
thành phố Hồ Chí Minh hiện có trên ba chục gia đình, coi anh Nghĩa như người
cùng làng vì tấm lòng cởi mở, gần gũi, chân tình của anh.
Quan hệ với anh em trong gia đình chúng tôi, chú em
tôi đã tâm sự: “Anh Nghĩa với gia đình chúng tôi là chỗ thân tình. Anh với anh
Lê Đình Toán (anh con nhà bác ruột tôi) là anh em “cọc chèo”. Hai anh sống với
nhau như an hem ruột. Những năm trước
đây, lần nào về thăm quê vợ (thôn Bình Cầu, cùng xã ) anh cũng đều dành thời
gian tới thăm bố và chú bác tôi chu đáo.Nhiều năm qua các anh, chị, em, các
cháu trong gia đình tôi cùng sống với gia đình anh tại Phường Bình An (Quận 2)
đều coi vợ chồng anh như người thân thiết trong gia đình” ( Lê Thanh).
Với riêng tôi, anh cũng dành tình
cảm và để lại cho tôi nhiều kỷ niệm. Lần đầu được gặp anh lâu nhất là năm 2001. Đó là lần thứ
2,3 gì đó có việc vào miền Nam, tôi đi vội môt chuyến xe đò cũ nát từ Phan
Thiết vào SG.Nhà xe bỏ tôi giữa đường không vào đến bến. Lúc đó điện thoại di
động còn rất hiếm. Tôi phải nhờ điên thoại dịch vụ ( điện thoại bàn ) ở một
quán ven đường để liên hệ với gia đình chú em và anh. Anh được nhờ đi và đã đi
đón tôi rất vất vả, gần sáng mới về đến nhà. Đợt ấy lần đầu tiên được anh cho
tiếp cận với mạng intenet... Rồi anh động viên tôi viết, viết gì cũng được “ để
cho vui”… Năm anh tới tuổi 70, tôi cũng viết bài “ Lục bát như ai” để chúc mừng
anh. Bài thơ theo thể lục bát dễ làm, có vần “ ai” nhân một bài người khác mừng
anh có một vần tương tự. Trong bài này, tôi muốn nói lên quy luật đời người,
bẩy mươi xưa nay hiếm, sức khỏe sẽ dần suy giảm. Đặt câu hỏi : liệu anh có
giống mọi người; và khẳng định anh khác người vì nhiều lẽ…Cảm ơn anh đã cho in
kèm vào “ Tự sự” của anh!
Nhiều lần được trò chuyện cùng anh,
được anh kể cho nghe những chuyện “ một thời đạn bom, một thời hòa bình”. Hôm
nay, được đọc bài “ Hẹn gặp “ của anh trên tập thơ, tôi lại nhớ một câu chuyện
anh khoe, đó là đã được gặp văn nghệ sĩ tài ba Nguyễn Đình Thi ở chiến trường
chống Mỹ. Được gặp một vĩ nhân đã là vinh hạnh rồi, nhưng lại được ông đọc “
Hẹn gặp” trên báo tường của đơn vị ở nơi gian khổ ác liệt, lại được ông khen
thì quả là một kỷ niệm đáng tự hào của anh. Hai bài “ Hẹn gặp “ của anh, “ Lá
đỏ” của Nguyễn Đình Thi đều mang, khái quát nguyện vọng giải phóng Sài Gòn,
giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước của toàn dân ta lúc đó. Một già một
trẻ, những người tài hay có những ý tưởng lớn gặp nhau, nhất là người Hà Nội…
Tháng 9 /2019, kỷ niệm 15 năm thành
lập và ra mắt Tập thơ thứ 10 với tựa đề “Miền quê văn hiến”, CLB Thơ Ca Đại Mão
có gửi tặng anh Nghĩa một tập thơ như một thành viên của CLB.
Hôm tổ chức lễ kỷ niệm và giao lưu thơ, anh đã
gửi ra một bài viết về cảm nghĩ nhân đọc” Miền quê văn hiến -10”. Bài viết của
anh đã được hội viên Lê Đình Thanh trình bày tại buổi giao lưu, gặp mặt hôm ấy,
đã góp phần cho nội dung buổi giao lưu gặp mặt thêm phong phú, ý nghĩa.
Nhận định về tập thơ, nhà văn Đỗ Viết
Nghiệm, (nguyên Trưởng đại diện phía nam –Tạp chí Văn nghệ Quân đội) đã trình
bấy ngắn gọn, súc tích ở đầu tập thơ. Ở đây tôi chỉ muốn nhắc lại vài kỷ niệm
với anh, một người lính, người cán bộ có tài, một người bạn tốt …Một lần nữa,
xin cám ơn anh đã tặng thơ. Kính chúc anh chị, các cháu và gia đình luôn vui vẻ,
mạnh khỏe, hạnh phúc!
Tháng 5 năm 2020
Lê Đình Ngạn
-------------------------------------
Bài tham khảo
Lá
đỏ - Lời hứa hẹn của
tình yêu và niềm tin tất thắng
(ThanhtraVietNam) - Nguyễn Đình Thi là người
đa tài ít gặp trong văn nghệ. Ông viết được văn, kịch, nhạc,phê bình lý luận
văn học và viết được cả thơ. Thể loại mà ông tâm huyết nhất vẫn là thơ, bởi đối
với ông: “Thơ là cái thiết tha, nhất của tôi, và cả cái tìm tòi rất khổ của
tôi”.
Thơ Nguyễn Đình Thi
mang cảm hứng về đất nước, nhân dân. Ông viết về đất nước gian khổ đau thương
quật khởi và ngời sáng với chiều sâu lịch sử và mang tính khái quát bởi tầm cao
thời đại.
Mùa thu năm 1974,
Nguyễn Đình Thi cùng với nhà thơ Tế Hanh, Phạm Tiến Duật, nhà nhiếp ảnh Đinh
Đăng Định theo đường mòn Hồ Chí Minh vào chiến trường Nam Bộ. Tại đây, ông đã
chứng kiến hiện thực của cuộc chiến tranh khốc liệt “giữa nghìn tiếng nổ rung
đêm lửa”. Sự hy sinh mất mát, đớn đau mà con người phải trải qua ở nhiều góc
độ, khía cạnh, tầng bậc khác nhau… Nhưng cũng chính từ những tổn thất, đau
thương, mất mát ấy lại hiện lên một vẻ đẹp diệu kỳ, lãng mạn của bức tranh
thiên nhiên Trường Sơn đại ngàn giữa mùa trút lá.
Lấy hiện thực làm điểm
tựa cho cảm xúc, những trải nghiện có thật đã tạo nên sự rung động thẩm mỹ
trong tâm hồn bay bổng của Nguyễn Đình Thi. Bất ngờ, xúc động tác giả nhặt một
chiếc lá đỏ ép vào cuốn sổ ghi chép và trong khoảnh khắc đó bài thơ được ra
đời, và trở thành khúc ca ra trận dọc theo chiều dài đất nước.
Lá đỏ
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn”
(Trường
Sơn, 12/1974)
“Trên cao” trong câu
thơ không chỉ nói về vị thế địa lý (dốc cao, đèo cao) mà còn hàm ý về vị thế
trong tư tưởng, trong tình cảm. “Cao” ở đây còn là cao quý, cao cả.
Câu tiếp theo “Rừng
lạ, ào ào lá đỏ”. Từ “lạ” trong câu thơ đã gây ấn tượng mạnh, bởi lạ là vì mới
gặp, lần đầu tiên thấy sắc đỏ rực lủa trong mùa Thu Tây Nguyên chăng? “Lạ” là
một cảm giác rất đúng, rất chân thật”. “Lạ” vì giữa nơi chiến trường dữ dội như
vậy lại xuất hiện những người em gái trẻ trung, mảnh mai nhưng rất đỗi kiên
cường khi ngày đêm phải đối mặt với hiểm nguy dẫn đường cho xe băng qua những
quảng đường khó và cái cảm giác lạ đó bỗng biến mất khi nhà thơ nhận ra hình
của em thật gần gũi, thân thương bởi đó là em của quê hương, của nơi chốn ta
quay về. Thêm nữa, hai từ “lộng gió” như lòng người rộng mở, niềm tin phơi phới
chào đón những luồng gió cách mạng.
Trong không khí của cuộc cách mạng sục sôi và dưới ánh sáng của
lý tưởng mới, hơn bao giờ hết hình ảnh người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp mới -
vẻ đẹp của những con người đã được giải phóng, được tháo ra khỏi vòng cương tỏa
của lễ giáo phong kiến, để hòa mình vào công cuộc chung của đất nước. Đó là
những cô thanh niên xung phong trên tuyến lửa Trường Sơn: “Em đứng bên đường
như quê hương/ Vai áo bạc quàng súng trường”. Hình ảnh “vai áo bạc” đã gợi ra biết bao tháng ngày mưa dầm
nắng lửa ở núi rừng. Thế nhưng, những người con gái mảnh mai ấy vẫn vượt qua
tất cả để có mặt chính tại đây, với súng trường quàng trên vai.
Thanh niên xung phong Trường Sơn với niềm tin thắng lợi. Ảnh: Đoàn
Công
Mặc dù nơi núi rừng, với mây mù giăng phủ, với gió lộng bạt
ngàn, với buổi chiều lá đỏ, đâu đó ánh lửa của đạn bom và sáng rực trên nền
trời, máu, nước mắt, hi sinh nhưng tất cả vì miền Nam ruột thịt, họ vẫn kiên
trì, anh dũng bám trụ từng tất đất "... Đoàn quân vẫn đi vội vã/ Bụi Trường
Sơn nhòa trời lửa”.
Hai câu cuối cùng: “Chào em, em gái tiền phương, ơi em gái tiền
phương. Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn!”. Đọc hai câu này ta như thấy cuộc gặp gỡ bất chợt thoáng
qua với một không khí khẩn trương, nhanh vội nhưng không kém phần xúc động mãnh
liệt, rồi để lại cho nhau lời hẹn quyết tâm chiến thắng. Sự thật và chính nghĩa
luôn ở phía chúng ta, với tinh thần anh dũng bất khuất của những người con
trai, con gái trên rừng Trường sơn năm ấy đã góp phần làm nên chiến thắng
30-4-1975, lá cờ Cách mạng được cắm trên nóc dinh Độc lập. Đây là thời điểm
đánh dấu thành phố Sài Gòn - Gia Định hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí
Minh toàn thắng.
Tái sinh đất nước, những chàng trai những “em gái tiền phương
năm ấy” có bao người được gặp lại nhau và có bao nhiêu người phải lổi hẹn? Họ
ra đi mãi mãi không về. Ôi! những tháng năm không thể nào quên, ngày càng thêm
những nỗi nhớ, nỗi khát khao hiện lên cả ở trong giấc mơ của những người đồng
đội: "Trường Sơn năm đợi tháng trông/ Ngày tìm đồng đội đêm nồng
chiêm bao” (Đồng đội - Đinh
Ngọc Du).
Những chiến sĩ, những “em gái tiền phương” năm ấy vẫn sống mãi
trong tấm lòng biết ơn và trong những thắng lợi lớn lao của dân tộc hôm nay và
ngày mai: “Đất nước/Của những người con gái, con trai/Đẹp như hoa hồng,
cứng như sắt thép/Xa nhau không hề rơi nước mắt/Nước mắt để dành cho ngày gặp
mặt…” (Chúng con chiến đấu
cho Người sống mãi Việt Nam ơi - Nam Hà).
Bài thơ Lá đỏ được
nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ sau đó không lâu. Trong những tháng ngày hừng hực khí
thế chiến đấu của quân dân Việt Nam yêu nước để dẫn tới ngày chiến thắng 30
tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử, Lá đỏ một bài ca hào hùng đầy tin tưởng và
hy vọng đã được ghi sâu vào trái tim mọi người. Năm 2016, lấy cảm hứng từ
ca khúc Lá đỏ (Nhạc Hoàng Hiệp, Thơ Nguyễn Đình Thi) và dựa trên những
hiểu biết, cảm xúc của mình về sự hi sinh dũng cảm của 8 Thanh niên
xung phong trong cuộc chiến tranh vệ quốc, Nguyễn Thị Hồng Ngát cũng
đã viết kịch bản thơ Lá đỏ.
Nguyễn Văn Thanh