Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2019

Chuyện người làng Giữa làm thơ


CHUYỆN NGƯỜI LÀNG GIỮA LÀM THƠ

          Nằm các nhau không xa, cùng bên dòng sông Đuống, hiện tại  làng Giữa không có nhiều nhà thơ nổi tiếng như ở Mão Điền, vì Mão Điền có những người như Nguyễn Phan Hách,Nguyễn Văn Chương…  nhưng người làng Giữa cũng có nhiều người hay làm thơ. Chả thế mà đến nay, Câu Lạc Bộ Thơ Ca Đại Mão có đến hơn 30 hội viên vẫn đều đặn sinh hoạt sau 15 năm thành lập.
            Họ làm thơ ca ngợi quê hương, làng xã. Họ làm thơ cổ động xây dựng nông thôn mới, cổ vũ việc giữ gìn thuần phong mỹ tục của quê mình. Họ còn làm thơ chống tiêu cực, hoặc có khi đơn giản làm thơ châm biếm, hài hước cho vui để lên án thói hư tật xấu ở đời. Họ làm thơ động viên nhau học tập, công tác, sản xuất. Nhiều bài thơ được làm để chúc thọ nhau. Các hội viên lớn tuổi hay làm thơ Đường và cũng hay dùng một số từ Hán Việt.
            Tết tới này, trong làng có một nhà giáo đáng kính tới tuổi 80. Ông làm vài ba bài thơ tự mừng thọ và mời bạn bè cùng họa. Trong số những người tham gia họa thơ mừng thọ, có một hội viên họa mừng cả ba bài.

                                                         ***

            Hỏi chuyện với  người họa thơ, tôi được đọc cả 3 bài họa của ông. Trong các bài thơ, ông cũng dùng một số từ Hán Việt. Vì không hiểu rõ lắm ngữ nghĩa, tôi hỏi ông nghĩa của một số từ đó là gì: Bách niên giai lão, Cử án tề mi ? Và được ông giải thích như sau:
            “ Cử án tề mi”  gốc gác thế này:
Đời Hậu Hán (25-219), ở đất Giang Nam có một chàng hàn sĩ tên Lương Hồng. Nhà nghèo, Lương Hồng ở trong túp lều tranh vách đất. Họ Lương chăm học biết trọng liêm sỉ, khí tiết, giữ đạo thanh bần cao đẹp. Đức hạnh, tài năng của chàng được người khâm phục, nổi tiếng khắp nơi.
Ở vùng địa phương có nàng Mạnh Quang vốn dòng nho gia giàu có nhứt vùng. Nàng tính nết đoan trang đức hạnh, đương độ kén chồng. Nhiều người thân hỏi, nàng trả lời rằng chỉ có người hiền đức như Lương Hồng mới xứng đáng là chồng.
Thấy nhà họ Mạnh đạo đức, Lương Hồng cùng nàng Mạnh Quang kết nghĩa đá vàng.
Khi làm lễ thành hôn, nàng Mạnh Quang mặc xiêm y lộng lẫy, trang sức toàn vàng ngọc đắt tiền, cốt làm đẹp cho chàng vừa ý. Nào ngờ trông thấy vợ trang sức rực rỡ, Lương Hồng không bằng lòng, bảy ngày đêm, chàng không làm lễ động phòng hoa chúc.
Nàng Mạnh Quang lấy làm lạ, kiểm điểm lại lời nói cử chỉ của mình không tỏ vẻ gì vô lễ. Nghĩ mãi, nàng ngờ rằng vì nàng trang sức lộng lẫy mà chồng không bằng lòng chăng. Nàng liền trút bỏ lớp áo quần tốt đẹp, đồ trang sức ngọc vàng, để mặc y phục vải bô, cài thoa gai ra hầu chồng.
Thấy vợ như thế, Lương Hồng vui vẻ nói:
- Đây mới chính là vợ của ta. Hồng này không màng danh lợi, không ham của bạc vàng. Hồng chỉ muốn cùng vợ cày lấy ruộng, trồng lấy lúa, dệt lấy vải, sinh sống trong cảnh nghèo mà lúc nào cũng giữ tròn khí tiết, đạo đức, vợ lúc nào cũng kính trọng chồng và chồng lúc nào cũng nể yêu vợ.
Mạnh Quang nghe chồng nói rất lấy làm vui vẻ. Nàng đối với chồng rất mực cung kính. Mỗi bữa cơm, đối diện, nàng nâng mâm ngang mày để tỏ lòng kính trọng chồng.
Trong tác phẩm "Nhị độ mai", tác giả Vô danh, đoạn diễn tả cảnh Hoài Nguyên đi cống Hồ có làm bài thơ tặng tình nhân là Mai Lương Ngọc lúc chia ly, có câu:
Ngang mày Mạnh thị chưa nâng án,
Thấy mặt Chiêu Quân đã mất tranh.
"Mạnh thị" đây chỉ nàng Mạnh Quang. Về sau, những nhà có hôn lễ, nhà trai thường viết 4 chữ "Cử án tề mi" dán ở cửa phòng, chỉ rằng người vợ hiền đức.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc Kiều sang chơi nhà Kim Trọng, chàng nho sinh này có chiều âu yếm lả lơi, Kiều sợ chàng đi quá vòng lễ giáo, mới có câu khuyên:
Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
Đã cho vào bực bố kinh.
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

"Bố kinh" là "Bố quần, kinh thoa", nghĩa là quần bằng vải, trâm cài đầu bằng gai, chỉ người vợ hiền đức.

             Ông giải thích thêm: Tôi mượn tích xưa để ca ngợi bà giáo ấy mà. Bà ấy cũng là người hiền đức. Vợ chồng ông bà giáo luôn yêu thương và quý trọng nhau.
      
              _ Thế còn “ Bách niên gia lão” ?
-      À, “ Bách niên giai lão “ là thế này!      
Bách niên giai lão là một thành ngữ quen thuộc, thường được nghe, được dùng trong tiếng Việt. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu đúng, dùng đúng thành ngữ này.
 Có một câu chuyện về cách dùng bách niên giai lão.

Hôm đó khá đông học sinh đang xem phim truyện. Thấy cảnh một thanh niên chào và chúc bà cụ: “Cháu chúc bà bách niên giai lão!” ở trong phim, thì cả tốp bạn đã nổ ra một cuộc bàn cãi.


Một cô gái bảo: “Nói với cụ bà mà lại dùng “giai lão” là không đúng, là lầm lẫn giới tính. Cách nói này chỉ dùng để chúc đàn ông, con trai thôi”.

Nhiều ý kiến nhao nhao đồng tình, rồi một thanh niên đứng phắt dậy bảo: “Tớ lại nghĩ khác. Sao bạn lại hiểu giai trong bách niên giai lão là con giai? Giai ở đây là yếu tố Hán - Việt có nghĩa “đẹp, tốt”, như các từ giai nhân (người đẹp), giai điệu (điệu nhạc hay, đẹp), giai thoại (câu chuyện hay, lí thú),… Và như vậy người ta chúc bà cụ giai lão (tức là đẹp lão) là hoàn toàn phù hợp. Sao lại không”.

Lặng đi một lúc với nhiều tiếng xì xào, rồi ai đó cất giọng: “Ê, ê… , “học giả” ơi, thế giai cấp là gì? Là “cấp đẹp” à? Hay “cấp con giai”? Xin “học giả” chỉ giáo cho!”. Khó quá, đến đây thì như ong vỡ tổ. Cuối cùng họ thống nhất để ngày mai sẽ hỏi cô giáo trong giờ tiếng Việt.

Ngày hôm sau nghe chuyện, cô giáo cười rất vui:

- Cô rất mừng, vì các em quan tâm tới cách dùng từ ngữ cả trong lúc vui chơi.
“Bách niên giai lão” là thành ngữ hay dùng, nhưng nó là thành ngữ Hán - Việt, hiểu kĩ thì dùng sẽ rất hay. Đây là thành ngữ gốc Hán, Đại từ điển Hán ngữ và Từ điển Việt – Hán của Lôi Hàng, của Hà Thành đều ghi rõ bách niên giai lão. Chúng ta tìm hiểi kĩ hơn các yếu tố cấu tạo. Trong bách niên giai lão thì bách là “một trăm” (bách hoá, bách khoa, bách phát bách trúng,…); niên là “năm, hoặc tuổi” (niên học, niên khoá,..; bạn vong niên, vị thành niên,…); lão là “già, người già” (lão hoá, lão suy, …; bô lão, dưỡng lão, kính lão đắc thọ); chỉ có giai là khó hiểu. Tất nhiên ở đây giai không phải là “con giai”, một yếu tố thuần Việt, cũng không phải là “đẹp”. Yếu tố giai này có nghĩa là “cùng nhau”. Và bách niên giai lão có nghĩa “cùng sống với nhau đến trăm tuổi, đến lúc già”. Hiện nay, thành ngữ thường dùng trong đám cưới hay chúc vợ chông mới cưới, mong họ có hạnh phúc bền lâu, sống với nhau đến lúc đầu bạc răng long. Ví dụ: Chúc cô dâu chú rể bách niên giai lão; Kinh Đô chúc tân lang và tân nương bách niên giai lão…

Trong tiếng Hán giai lão đã xuất hiện từ bộ Kinh thi. Trong bài (Kích cổ: Đánh trống; thiên Bội phong) có câu “Chấp tử chi thủ, Dữ tử giai lão: Nắm chặt tay em, Cùng em (sống đến già)”, tả tâm trạng của người nước Vệ khi đi chinh chiến xuống phía Nam vẫn luôn nhớ mong, thề thốt với người yêu. Sau đó giai lão thường được dùng để nói về tình cảm vợ chồng thuỷ chung, hạnh phúc.

Bách niên giai lão đã được dùng trong câu “Chỉ nguyện nhĩ môn phu phụ bách niên giai lão, đa tử đa tôn: Chỉ mong tình nghĩa chồng vợ bách niên giai lão, đông con nhiều cháu” ở tác phẩm Chuyện làng Nho của Ngô Kính Tử.

Còn bách niên (trăm năm) cũng được dùng để nói về tình nghĩa vợ chồng bền chặt, dài lâu: “Chữ đồng lấy đấy làm ghi, Mượn điều thấy tịch mà thề bách niên”. (Cung oán ngâm khúc¸Nguyễn Gia Thiều) trong đó thất tịch: đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch, theo truyền thuyết Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Hoặc lời Phạm Tải nói với Ngọc Hoa trong Truyện nôm Phạm Tải Ngọc Hoa: “Tưởng là vẹn đạo xướng tuỳ, Cho nên vàng đá chót thề bách niên”. Tuy nhiên, bách niên cũng như trăm năm trong tiếng Việt còn có nghĩa “một đời, suốt đời”. Ví dụ ở bài Lên cao của Đỗ Phủ có câu: Vạn lí bi thu thường tác khách, Bách niên đa bệnh độc đăng đài; Nhà thơ Nam Trân dịch Thu quạng nghìn khơi lòng khách nao? Đài cao trăm bệnh chiếc thân mòn. Như vậy, cần dựa vào cảnh huống cụ thể để hiểu đúng được nghĩa của bách niên.

Trở lại lời chúc của anh thanh niên nọ trên phim truyền hình. Khi chúc cụ bà bách niên giai lão người chúc đã có hai chỗ sai. Thứ nhất, anh ta hiểu sai thành ngữ Hán - Việt này: chỉ nhận biết đại khái ở đây có “trăm tuổi (bách niên)”, có “già (lão)”; người già được trăm tuổi là quá tuyệt vời. Rồi chẳng cần biết giai là gì, anh đã thay câu chúc thông thường “Chúc bà mạnh khoẻ sống lâu” bằng bách niên giai lãoI để nghe có vẻ súc tích, uyên thâm. Thứ hai, từ cách hiểu sai thành ngữ dẫn tới cảnh huống dùng thành ngữ sai. Bách niên giai lão (“cùng sống với nhau đến già”) luôn luôn nói về quan hệ tình cảm, cảnh chung sống hạnh phúc trọn vẹn của hai người (vợ chồng, người yêu), còn anh thanh niên lại dùng để chúc tuổi thọ cụ già, tức nói về một người, một đối tượng nào đó. Việc không hiểu hoặc hiểu không đúng yếu tố giai (= cùng nhau; một người không thể cùng nhau) dẫn tới cách dùng sai như trên.

Tuy nhiên, vẫn có thể gặp trong tiếng Việt, nhất là văn thơ cổ, thành ngữ bách niên giai lão với phạm vi nghĩa rộng hơn. Ví dụ, trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn có câu: “…chẳng những gia quyến của ta được yên ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão…” thì bách niên giai lão nói về cuộc sống gia đình hạnh phúc, bền lâu, chứ không còn đơn thuần chỉ là lời chúc. Hoặc, một câu khác: “Một thơ giai lão lên lời chúc, Đôi chữ thừa loan mượn chén khuyên.” (Thơ nôm “Lâm tuyền kì ngộ”, bài “Tôn Sinh bái tạ phụ mẫu”). Các tác giả phiên âm và giới thiệu (Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San) đã chú giải: “giai lão bởi chữ bách niên giai lão “cùng sống trăm năm đến tuổi già”; ý nói: Tôn Sinh làm thơ chúc mừng cha mẹ cùng vui sống tuổi già”. Lúc này bách niên giai lão không chúc hạnh phúc lứa đôi đối với người mới cưới, còn trẻ, mà nhấn mạnh ý “cùng nhau vui sống đến già hay ở tuổi già”.

Song, cũng phải thừa nhận bách niên giai lão là thành ngữ khó, chữ giai với nghĩa “cùng nhau” chỉ được tiếng Việt mượn dùng duy nhất trong thành ngữ này, chưa đi vào tiềm thức người Việt. Nó khác với chữ giai là “đẹp, tốt đẹp” trong giai âm, giai điệu, giai nhân, giai phẩm, giai thoại, giai tế, …, và chữ giai là “bậc” trong giai cấp, giai tầng, giai đoạn, âm giai, văn giai,.. Do vậy, hiện tượng dùng sai bách niên giai lão như anh thanh niên nọ vẫn lác đác gặp phải trong đời sống. Chẳng hạn, trên mạng Internet (Google, ngày 4/12/06) vẫn gặp những câu viết sai như: *Cụ sống vui vẻ và thọ đến bách niên giai lão; *Ước mơ bách niên giai lão của con người; *Bách niên giai lão với người già, hay ăn chóng lớn với trẻ nhỏ, v,v. Hiện tượng này, trước đây đã có lần Bác Hồ phê bình thân mật các nhà báo. Lần đó “Bác cười và nhắc lại với mọi người: Họ chúc Bác bách niên giai lão mà báo cũng đăng đấy!” (dẫn theo Thành ngữ tiếng Việt, Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, NXB Khoa học xã hội, H. 1978, tr49). Để dùng đúng các ví dụ trong các cảnh huống nói trên, cũng như trong câu Bác Hồ đã nhắc nhở, cần thay bách niên giai lão bằng trăm tuổi, hay sống lâu trăm tuổi.
                - Sao ông biết nhiều chuyện hay thế?
                - À, trước đây tôi cũng được học một chút chữ Nho, nhưng để hiểu thì bây giờ quân ta cứ vào mạng Intenet là biết cả ấy mà. Ví dụ như đoạn tôi nói về “ Bách niên giai lão” vừa rồi, tôi cũng tra mạng và biết là của tác giả Ngọc Trâm - PTS.TS Viện Ngôn ngữ học - Nguồn: Ngôn ngữ & đời sống, số 1+2-2007, tr49.
Nguồn: vusta.v).
Tôi thầm nghĩ: Đáng phục các cụ! Già rồi mà tiếp cận các phương tiện thông tin thời mới! Còn hơn cả một số thanh niên không biết sử dụng công nghệ thông tin, hoặc dùng vào những mục đích không hay như đánh bạc, tán gẫu lang thang vô bổ trên mạng mà không biết sử dụng để bổ xung kiến thức, hiểu biết có lợi !
               - Như ông vừa nói : Câu này chủ yếu để chúc mừng cô dâu chú rể trong dịp kết hôn mà?
               -  Đúng vậy. nhưng nhiều người  cũng dùng để chúc thọ với những gia đình có cả vợ chồng có tuổi thọ cao. Ở đây tôi cũng dùng trong bài thơ chúc thọ, với hàm ý “ chúc hai ông bà đã và sẽ cùng nhau vui sống đến thật già” – vì đến tuổi này hai ông bà vẫn sống cùng nhau…
                                                        *****
               Vậy đấy. Người làng Giữa làm thơ để ca ngợi nhau, cũng để  nhắc nhau và giáo dục con cháu. Tôn trọng người già, vợ chồng đều phải có trách nhiệm và tôn trọng lẫn nhau, có như vậy gia đình mới hạnh phúc. Chứ còn sống mà luôn ốm yếu, con cháu hư hỏng thì người sống cũng buồn…
               Được đọc và nghe tác giả giải thích, tôi được hiểu thêm về ý nghĩa của một số từ,  và hiểu thêm  về thơ Đường luật. Đây là một thể thơ rất khó làm, rất ngắn gọn nhưng nội dung rất súc tích. Thanh niên như chúng tôi bây giờ đa phần chưa hiểu, chưa biết làm thơ Đường,vì nó gò bó quá, nhưng khi đã hiểu thì thấy quả là hay.
                                                                                             LÊ TRUNG THÔN


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét