Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

Chuyện nghe được..2

Chuyện nghe được ở nhà ông giáo Giáo ( 2 )   

(…Đến chơi nhà Ông giáo, có khá nhiều cụ, nhiều ông. Chẳng hạn như cụ Lương 83 tuổi rồi mà vẫn nhớ nhiều mặt chữ nho, làm thơ nhiều thể loại và đặc sắc là thơ Đường. Ông Sắc, ông Vĩnh cũng là nhà giáo nghỉ hưu, hay cụ  Hoa  thương binh chống Mỹ và nhiều các ông bà khác trong xóm trong làng. Uống trà sáng sớm, nói chuyện thời sự trong nước và thế giới, chuyện mới trong làng, hay là ôn chuyện cũ thời phong kiến đế quốc, chuyện đánh Mỹ, chuyện thời bao cấp ngày xưa…
Tôi cũng hay sang nhà ông và được nghe nhiều chuyện. Đôi khi có dịp, được  tham gia chút ít về chuyện Hà Nội, chuyện học hành thi cử hay chuyện giao thông… còn đa phần để giúp Ông giáo đun nước, pha trà mời các ông, các cụ và làm thính giả.
Nghe các cụ nói chuyện, tôi biết thêm bao chuyện lao động, học hành, chuyện đánh giặc ngày xưa của các cụ, hào hùng gian khổ thế nào, lạc hậu,  ấu trĩ ra sao. Nhưng cũng có những điều tôi thấy ngày xưa văn minh hơn cả bây giờ…)
                    
                                         CHÚ RỂ THẦN ĐỒNG
           
Như đã hứa với các bạn trẻ hôm trước, hôm nào rảnh một chút tôi sẽ “ kể lại” những câu chuyện nghe được ở nhà Ông giáo làng tôi.( Được dự những buổi tọa đàm như thế, tôi được biết thêm khá nhiều chuyện về quê hương, nhiều chuyện  như giai thoại văn học, hay như truyện cổ tích. Để hôm  nào rảnh, tôi sưu tầm kể lại cho các bạn cùng nghe…).
Hôm nay tôi kể với các bạn câu chuyện một chú rể bé nhỏ nhưng rất thông minh được nghe kể tại nhà ông Giáo.


Như nhiều làng quê khác ở Việt Nam thời phong kiến, trước đây các cụ ở Đại Mão làng tôi dựng vợ, gả chồng cho các con từ khi còn nhỏ tuổi. Cậu Nho Quán lấy vợ khi còn ít tuổi tương tự như nhiều người. Năm Quý Sửu 1913, khi cậu Quán mới 11 tuổi, cụ Cả Hoành đã tổ chức xây dựng gia đình cho cậu. Cô dâu là Ngô Thị Lương, cháu gái 4 đời quan Ngự sử triều Nguyễn, người thôn Đông Miếu xã ta.

Cụ Cả Hoành  tính vốn cẩn thận, đã sắp đủ đồ sính lễ và định lễ rước dâu vào giờ Tỵ ngày 16 tháng 8. Đoàn nhà trai đi đón dâu gồm 21 người gồm các cụ ông,cụ bà phu phụ song toàn, một số cô cậu thanh niên đội cau, đội rượu và một số đồng môn của chú rể cùng đi sang nhà gái.
Khi các cụ và đoàn đón dâu đến nhà gái thì cánh cổng  bị đóng. Một người đàn ông trạc tuổi ngoại tam tuần đứng ở bên ngoài nói:
- Cụ Tổng nhà tôi có ra một vế đối, nếu chú rể đối được thì sẽ mở cổng ngay. Còn không thì hãy đợi một lúc nhé!
Nói rồi, người đó đọc một vế câu đối như sau:

-         Thôn Trung, thôn Đông, ngoảnh lại mà trông, Đông hơn bốn nét.

Những người từng học chữ nho trước đây đều hiểu rằng; Chữ Trung trong tiếng Hán được viết là (... ); , chữ Đông được viết là (... ), nhiều hơn bốn nét. Câu này vừa tả  thực, nhưng cũng ngầm đề cao nhà gái là nhà quyền quý, cô dâu là tằng tôn quan ngự sử; đồng thời đề cao thôn Đông Miếu (thôn Đông).

Trong lúc các cụ, các ông bà và đoàn nhà trai còn đang lúng túng, chưa biết xử lý tình huống này ra sao, “ tham mưu” cho chú rể thế nào, thì cậu Nho Quán đã đĩnh đạc bước lên thi lễ và đọc vế đối:

-         Chữ Nhân, chữ Đại, quan viên xem lại, Đại hơn một tầng.

Mọi người ồ lên phấn khởi, mừng cho chú rể đã đối được câu rất chỉnh rất hay, mà lại rất đanh thép. Này nhé: Chữ Đại được viết là (... ), còn chữ Nhân được viết là (... ), đúng là có thêm một nét ngang phí bên trên. Câu này cũng còn có ý đề cao làng Đại Mão hơn Đông Miếu một tầng; dựa vào sự tích cả 2 làng đều thờ thần Thành Hoàng là Lạc Thị Đại Vương, nhưng làng Giữa thì thờ Lạc Thị Đệ Nhị Đại Vương, Đông Miếu thờ Lạc Thị Đệ Tam Đại Vương. ( Hiện 3 làng Thụy Mão, Đại Mão và Đông Miếu vẫn còn giao lưu qua lại. Khi một trong ba làng tổ chức Đình Đám tháng Giêng thì 2 làng còn lại đều có đám rước đến làm lễ Thành Hoàng làng sở tại).

Cánh cổng nhà gái lập tức được mở ra. Nhà gái vui vẻ đón đoàn nhà trai vào trong nhà. Nước, thuốc, trầu cau mời các quan viên hai họ, chuẩn bị  và làm các thủ tục cho lễ đón dâu…

Cụ Tổng cứ tấm tắc khen: Thằng cháu rể thông minh như thần đồng!

Chỉ tiếc là đến năm 1915, khóa thi Ất Mão là khóa thi chữ Hán cuối cùng của thời phong kiến, nên cậu Quán không có thời cơ trả nợ bút nghiên, sau này chỉ được gọi cái tên là anh ( bác, ông ) Quán Trung. ( Anh Quán Trung Thôn, tức làng Giữa – Đâị Mão – sau này anh cũng đi dạy chữ Hán cho đến hết thời phong kiến 1945 ).


                                                                              LÊ TRUNG THÔN
     
                ****************************************  













Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét