Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2015

Hoàng Cầm -Một hồn thơ Kinh Bắc
Nhà thơ Hoàng Cầm tên khai sinh là Bùi Tằng Việt sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922 tại xã Phúc Tầng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Quê gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Nhà thơ Hoàng Cầm.

Học xong tiểu học ở Bắc Giang và Bắc Ninh ông ra Hà Nội học Trung học. Năm 1940 đỗ Tú tài toàn phần. Ông bước vào nghề văn, viết báo, làm gia sư, dịch sách. Năm 1944 ông về quê Song Hồ, Thuận Thành tham gia thanh niên cứu quốc của mặt trận Việt Minh. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 ông viết kịch và thành lập Ban kịch Ðông Phương. Ông gia nhập Vệ quốc quân và thành lập đội Văn nghệ tuyên truyền thuộc chiến khu Việt Bắc. Ðầu năm 1955 Hoàng Cầm được bầu vào Ban chấp hành khóa I Hội Nhà văn Việt Nam và được cử vào Ban Giám đốc Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Hoàng Cầm có nhiều tài như ngâm thơ, làm diễn viên, hội họa, viết kịch, viết văn, dịch sách nhưng sâu đậm nhất và thành công nhất trong cuộc đời là sáng tác thơ. Ông là nhà thơ trữ tình nổi tiếng đặc sắc. Một hồn thơ tiêu biểu của xứ Kinh Bắc.
Trong thơ và trong cuộc đời Hoàng Cầm ấn tượng, tình cảm sâu đậm nhất là quê hương. Ông nhắc đến quê hương là yêu mến và trân trọng. Nói đến quê hương là hình ảnh người Mẹ hiển hiện:
Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
(Ðêm thổ)
Quê hương trong thơ Hoàng Cầm lung linh huyền thoại và đậm chất sử thi. Những sông, núi, ao hồ, đình, chùa làng xóm được khơi gợi:
- Sông Cầu xuôi bến Hát
Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn
(Gió lông ngỗng)
- Áo Hai Ba dăng mắc
Rừng liên miên chi chít mộ Hùng Vương
(Ðèn nhang 1)
Về với bài thơ “Bên kia sông Ðuống” sinh thời ông tâm sự “Tôi đang ở trong trạng thái bồn chồn, thao thức, tâm tư rối bời sau khi nghe báo cáo về quê hương mình bị giặc Pháp xâm lược kéo đến tàn phá, giết chóc, tôi chưa định viết gì. Lúc quá nửa đêm vắng lặng, bỗng văng vẳng bên tai ba câu:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Ðuống
Ngày xưa… cát trắng phẳng lì
Tôi bèn chụp lấy, ghi ngay và cứ thế cảm xúc trào ra một mạch dài, viết rất nhanh sợ không theo kịp những thanh âm, làn điệu, đang cuồn cuộn dâng lên trong lòng mình. Cho đến gần sáng thì xong bài thơ.
Về trường hợp ra đời bài thơ “Lá Diêu bông” ông viết: “Nhà tôi ở vào một phố nhỏ, lại lùi tít ở phía bên trong nên tiếng xe cộ thưa thớt ngoài đường tôi cũng không nghe rõ. Im lặng. Chợt bên tai vẳng lại một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành mạch, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thuở nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về:
Váy Ðình Bảng buông chùng cửa võng
Tôi xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay lên giấy. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng mà cũng không quá chậm và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ…”.
Thường viết vào lúc đêm khuya, trong tâm thức như người “nhập đồng” nên thơ Hoàng Cầm huyền ảo, mông lung. Cảnh sắc nên thơ nhưng thường là đã qua, đã tàn lụi chỉ còn trong nỗi nhớ tiếc:
- Tràu cau chẳng kịp cốm hồng
Xác pháo đã vùi trong ngõ mưa lầy lội.
(Tôi người làng Quan họ)
- Mẹ kể chuyện ngày xưa xa lắm
Tháng tám ao hồ mát lạnh
(Quan họ mở đầu)
Không gian, thời gian trong thơ Hoàng Cầm rất rộng, đa chiều, nhiều tầng, nhiều lớp. Ông viết về thiên nhiên, về huyền sử, về tôn giáo, về phong tục tập quán nhưng bao trùm và cốt lõi là con người:
Váy Ðình Bảng buông chùng cửa võng
Chất sống, sức sống con người luôn trỗi dậy vượt qua lớp vỏ dù là tôn giáo, nét đẹp của người con gái dậy thì hiển hiện ở nơi muốn xa trần thế:
Chùa Phật Tích duỗi trong màn lụa bạch
Tượng Quan âm má ửng bồ quân
Vẻ đẹp kiêu sa, thân thế ngà ngọc được vẽ lên sinh động và trong một tâm thế thảng thốt như mê như tỉnh:
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Ðùi chảy búp dài thon nhún vội
Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh
(Thi đánh đu)
Ước muốn được giải thoát khỏi mọi thứ ràng buộc, dù là lụa là châu báu luôn là một tâm niệm của Hoàng Cầm
Ðến khi xé lụa bừng da thịt
Ngửa mặt phù du khép gió xanh
(Dáng thơ)
Trong những năm tháng cô đơn, buồn tẻ sống xa quê hương Hoàng Cầm lại nhớ về quê hương và sáng tác về quê hương. Những tập thơ “Tiếng hát Quan họ-1956”, “Mưa Thuận Thành-1991”, “Lá Diêu bông-1993”, “Về Kinh Bắc-1994” là tấm lòng và cũng là nỗi niềm của ông với quê hương. Trong thơ ông thực và mộng, yêu thương và đau xót, hiện tại và quá khứ được cất lên với nhiều tâm trạng của người con muốn nói hết những ẩn ức của lòng mình.
Trần Anh Trang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét