NHỊ THẬP TỨ HIẾU
Hiếu hạnh xưa nay vẫn
đứng đầu
Gương soi cảnh tỉnh mãi dài lâu
Sinh thành dưỡng dục công non thái
Nghĩa cử đáp đền tợ bể sâu
Đạo đức suy đồi gây bất ổn
Luân thường loạn tưởng tạo thương đau
Thành tâm hướng thiện cầu an lạc
Khổ nạn tiêu tan rõ nhiệm mầu
Gương soi cảnh tỉnh mãi dài lâu
Sinh thành dưỡng dục công non thái
Nghĩa cử đáp đền tợ bể sâu
Đạo đức suy đồi gây bất ổn
Luân thường loạn tưởng tạo thương đau
Thành tâm hướng thiện cầu an lạc
Khổ nạn tiêu tan rõ nhiệm mầu
Nhị Thập Tứ Hiếu là một tác phẩm
văn học nổi tiếng từ xưa đến nay. Truyện viết về sự tích, hai mươi bốn tấm
gương hiếu thảo của các bậc hiếu tử. Trên từ vua chúa, dưới đến lê dân bá tánh,
không ai là không noi theo lời dạy của Thánh nhân cổ đức, "Bách Thiện Hiếu
Vi Tiên", trong một trăm điều thiện thì hiếu thảo đứng đầu.
Kiệt tác này do học sĩ Quách Cư Kính, đời nhà Nguyên soạn. Ông là một thi sĩ có tài và còn là người con hiếu thảo. Sau khi cha ông qua đời, vị hiếu tử này chọn lựa hai mươi bốn gương hiếu hạnh, từ thời vua Thuấn đến đời ông và dùng thể thơ diễn kệ ngợi khen.
Kiệt tác này do học sĩ Quách Cư Kính, đời nhà Nguyên soạn. Ông là một thi sĩ có tài và còn là người con hiếu thảo. Sau khi cha ông qua đời, vị hiếu tử này chọn lựa hai mươi bốn gương hiếu hạnh, từ thời vua Thuấn đến đời ông và dùng thể thơ diễn kệ ngợi khen.
Hai mươi bốn người con hiếu thảo nhất trong sử Trung Quốc
Người tai mắt đứng trong trời đất,
Ai là không cha mẹ sinh thành,
Gương treo đất nghĩa, trời kinh,
Ở sao cho xứng chút tình làm con.
Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,
Thì suy ra trăm nết đều nên,
Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền,
Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu.
- 1 1. Ngu
Thuấn
- 2 2. Văn
Ðế
- 3
3. Tăng Tử
- 4
4. Mẫn Tử Khiêm
- 5
5. Tử Lộ
- 6
6. Diễm Tử
- 7
7. Lão Lai Tử
- 8
8. Ðổng Vĩnh
- 9
9. Quách Cự
- 10
10. Khương Thị
- 11
11. Thái Thuận
- 12
12. Ðinh Lan
- 13
13. Lục Tích
- 14
14. Giang Cách
- 15
15. Hoàng Hương
- 16
16. Vương Thôi
- 17
17. Ngô Mãnh
- 18
18. Vương Tường
- 19
19. Dương Hương
- 20
20. Mạnh Tông
- 21
21. Sửu Kim Lâu
- 22
22. Dương Thị
- 23
23. Châu Thọ Xương
- 24
24. Tăng Trực
1. Ngu Thuấn
Ðức đại thánh họ
Ngu, vua Thuấn,
Buổi tiềm long gặp
vận hàn vi,
Tuổi xanh khuất bóng
từ vi,
Cha là Cổ Tẩu người
thì ương ương
Mẹ ghẻ tính lại càng
khe khắt,
Em Tượng thêm rất
mực điêu ngoa.
Một mình thuận cả,
vừa ba
Trên chiều cha mẹ,
dưới hòa cùng em.
Trăm cay đắng, một
niềm ngon ngọt,
Dẫu tử sinh không
chút biến dời,
Xót tình khóc tối,
kêu mai,
Xui lòng ghen ghét
hóa vui dần dần.
Trời cao thẳm mấy
lần cũng đến,
Vật vô tri cũng mến
lọ người,
Mấy phen non lịch
pha phôi,
Cỏ, chim vì nhặt,
ruộng, voi vì cày .
Tiếng hiếu hữu xa
bay bệ thánh,
Mệnh trung dung trao
chánh nhường ngôi
Cầm thi, xiêm áo
thảnh thơi,
Một nhà đầm ấm, muôn
đời ngợi khen.
2. Văn Ðế
Kìa Văn Ðế vua hiền
Hán đại
Vâng ấn phong ngoài
cõi phiên vương
Quên mình chức cả,
quyền sang,
Phụng thờ Bạc Hậu lễ
thường chẳng sai.
Ðến khi nối ngôi
trời trị nước,
Vẫn lòng này săn sóc
như xưa .
Mẹ khi ngại gió,
kinh mưa,
Ba năm hầu hạ,
thường như mọi ngày.
Mắt chong bóng dám
sai giấc ngủ,
Áo luôn mình dám sổ
đai lưng.
Thuốc thang mắt xét,
tay nâng,
Có tường trong
miệng, mới dâng dưới màn.
Tiếng nhân hiếu đồn
vang thiên hạ,
Thói thuận lương hóa
cả lê nguyên.
Hai mươi năm lẻ kiền
khôn,
Ðã sau Tam Ðại, hãy
còn Thành, Khang.
Ấy hay vị đế vương
đời trước,
Chữ hiếu dành đá
tạc, vàng in,
Còn ra sĩ, thứ, đấng
hiền
Ðếm xem mấy kẻ tiếng
truyền đến nay.
3. Tăng Tử
Ðời Chu mạt có thầy
Tăng Tử,
Thờ mẹ cha thời giữ
chí thành,
Bữa thường rượu thịt
ngon lành,
Cho ai, vâng cứ đinh
ninh chẳng rời.
Nhà bần bạc thường
vui hái củi,
Quãng mù xanh thui
thủi non sâu,
Mẹ ngồi tựa cửa bóng
sau,
Nhân khi khách đến,
trông mau con về.
Rồi trong dạ nhân
khi cùng túng,
Cắn ngón tay cho
động lòng con.
Trong non bỗng chốc
bồn chồn,
Quặn đau khúc ruột,
bước dồn gót chân.
Quỳ dưới gối ghé gần
thưa hỏi,
Lắng bên tai nghe
giải nguồn cơn.
Cho hay từ, hiếu
tương quan,
Non Ðồng khi lở,
khôn hàn tiếng chuông.
4. Mẫn Tử Khiêm
Thầy Mẫn Tử rất
đường hiếu nghĩa,
Xót nhà huyên quạnh
quẽ đã lâu.
Thờ cha sớm viếng,
khuya hầu,
Chẳng may gặp phải
mẹ sau nồng nàn.
Trời đương tiết đông
hàn lạnh lẽo,
Hai em thời kép áo,
dày bông,
Chẳng thương chút
phận long đong,
Hoa lau nỡ để lạnh
lùng một thân.
Khi cha dạo, theo
chân xe đẩy,
Rét căm căm nên xẩy
rời tay,
Cha nhìn ngẫm nghĩ
mới hay,
Nghiến răng rắp cắt
đứt dây xướng tùy.
Gạt nước mắt, chân
quỳ, miệng gửi:
Lạy cha, xin xét lại
nguồn cơn,
Mẹ còn, chịu một
thân đơn,
Mẹ đi, luông để cơ
hàn cả ba
Cha trông xuống cũng
sa giọt tủi.
Mẹ nghe lời cũng đổi
lòng xưa,
Cho hay hiếu cảm nên
từ,
Thấm lâu như đá cũng
rừ lọ ai?
5. Tử Lộ
Thầy Tử Lộ cùng
người nước Lỗ,
Thờ hai thân từng
bữa canh lê
Thường khi đội gạo
đi về,
Xa xôi trăm dặm,
nặng nề hai vai.
Ðỉnh Hoa biểu từ
khơi bóng hạc,
Gót Nam Du nhẹ bước
tang bồng,
Xe trăm cỗ, thóc
muôn chung,
Ngồi chồng đệm ghép,
ăn chồng vạc cao.
Thân phú quý ngắm
vào thêm tủi,
Ðức cù lao chạnh tới
lòng đau,
Nào khi đội gạo,
canh rau,
Muốn còn như cũ, dễ
hầu được ru?
Lòng thắc mắc nghìn
thu vẫn để,
Biết bao giờ cam chỉ
đền công.
Cho hay dạ hiếu khôn
cùng,
Dẫu Tam Công chẳng
đổi lòng thần hôn.
6. Diễm Tử
Chu Diễm Tử làm con
rất thảo,
Chiều hai thân tuổi
lão, niên cao,
Mắt trần khuất
nguyệt, mờ sao,
Sữa hươu, người
những ước ao từng ngày.
Vật khó kiếm khôn
thay thường đổi,
Phải lo phương tìm
tõi cho ra.
Hươu khô tìm lấy lột
da,
Mặc làm sắc áo để
hòa lẫn theo.
Chốn non thẳm tìm
vào bầy lứa,
Sẽ dần dà lấy sữa
nuôi thân,
Bỗng đâu gặp lũ đi
săn,
Rắp buông cung bắn,
khôn phân vật, người.
Ðem tâm sự tới nơi
bày tỏ,
Chút hiếu tình nghe
rõ không thôi,
Cho hay chung một
tính trời,
Mảnh son cũng động
được người vũ phu.
7. Lão Lai Tử
Lão Lai Tử đời Chu,
cao sĩ,
Thờ hai thân chẳng
trễ ngọt bùi,
Tuổi già đã đúng bảy
mươi.
Nói năng chẳng chút
hở môi rằng già.
Khi thong thả, mẹ
cha ngồi trước,
Ghé gần vào bắt
chước trẻ thơ,
Thấp cao điệu múa
nhởn nhơ,
Xênh xoang màu áo,
bạc phơ mái đầu.
Chốn đường thượng,
khi hầu bưng nước,
Giả làm điều ngã
trước thềm hoa,
Khóc lên mấy tiếng
oa oa,
Tưởng chừng lên bảy,
lên ba thuở nào.
Trên tuổi tác trông
vào vui vẻ
Áng đình vi, gió
thụy mưa xuân
Cho hay nhân tử sự
thân,
Trong trăm năm được
mấy lần ngày vui.
8. Ðổng Vĩnh
Ðời Hậu Hán có người
Ðổng Vĩnh,
Nhà rất nghèo mà
tính rất thành,
Thấu chăng, chẳng
thấu trời xanh,
Phụ tang để đó, nhân
tình còn chi.
Liều thân thể làm
thuê công việc,
Miễn cầu cho thể
phách được yên.
Nực cười thay! nhẽ
đồng tiền,
Ðem thân hiếu tử,
băng miền phú gia.
Bỗng gặp kẻ đàn bà
đâu đó,
Xin kết làm phu phụ
cùng đi.
Lụa, ba trăm tấm dệt
thuê,
Trả xong nợ ấy mới
về cùng nhau.
Tới chốn gặp bỗng
đâu thoắt biến,
Là tiên cô, Trời
khiến giúp công.
Mới hay Trời vốn ở
lòng,
Há rằng cao thẳm,
nghìn trùng mà xa.
9. Quách Cự
Hán Quách Cự cửa nhà
sa sút,
Thờ mẫu thân chăm
chút mọi bề.
Con còn ba tuổi biết
gì,
Bữa ăn từ mẫu thường
thì bớt cho.
Trông thấy mẹ bữa
no, bữa đói,
Với hiền thê than
nỗi khúc nhôi
Mẹ già đã chẳng hay
nuôi,
Ðể con xẻ ngọt, chia
bùi sao đang?
Vợ chồng ta còn phen
sinh đẻ,
Mẹ già rồi, hồ dễ
được hai,
Nói thôi, giọt vắn,
giọt dài,
Ðào ba thước đất để
vùi tình thâm.
May đâu thấy hoàng
kim một hũ,
Chữ Trời cho đề rõ
rành rành,
Cho hay Trời khéo
ngọc thành,
Hiếu tâm đâu để đoạn
tình cha con.
10. Khương Thị
Hán Khương Thị nhà
còn lão mẫu,
Vợ họ Bàng vẹn đạo
chữ tòng,
Mẹ thường muốn uống
nước sông,
Vợ từng đi gánh thay
chồng hầu cô.
Mẹ thường muốn ăn đồ
gỏi ghém,
Vợ chồng đều tìm
kiếm đủ mùi,
Lại mời lân ẩu sang
chơi,
Ðể bồi cùng mẹ cho
vui bạn già.
Bên nhà bỗng chảy ra
suối ngọt,
Với nước sông in một
mùi ngon,
Lý Ngư ngày nhảy hai
con,
Ðủ trong cung cấp
thần hôn thường lề.
Rày thong thả bõ khi
lận đận,
Cam thỏa lòng dâu
thuận, con hiền.
Cho hay gia đạo khi
nên,
Ðã con hiếu, lại
được hiền cả dâu.
11. Thái Thuận
Người Thái Thuận ở
sau đời Hán,
Dạ thờ thân tiết
loạn khôn lay,
Ðương cơn khói lửa
mây bay,
Liền năm hoang
khiếm, ít ngày đủ no.
Nơi rừng rậm kiếm đồ
nuôi mẹ,
Nhặt quả dâu chia để
làm hai,
Tặc đồ trông thấy
nực cười,
Hỏi: "Sao bày
đặt đôi nơi cho phiền?"
Rằng: "Quả ấy
sắc đen thì ngọt,
"Dâng mẹ già
gọi chút tình con,
"Còn là sắc đỏ
chẳng ngon,
"Cái thân cay
đắng dám còn sợ chua?"
Giặc nghe nói khen
cho hiếu kính,
Bước lưu ly mà gánh
cương thường,
Truyền quân của tiễn
sẵn sàng,
Vó trâu một chiếc,
gạo lương một bàu.
Mừng trong dạ, bước
mau lẹ gót,
Về tới nhà, miếng
sốt dâng qua,
Cho hay người cũng
người ta,
Biết đâu đạo tặc
chẳng là lương tâm?
12. Ðinh Lan
Hán Ðinh Lan thuở
còn thơ ấu,
Bóng xuân huyên
khuất dấu non xanh,
Ðến nay tuổi đã
trưởng thành,
Cám công sơn hải,
thiệt tình trân cam.
Tưởng dung mạo khắc
làm mộc tượng,
Cứ bữa thường phụng
dưỡng như sinh,
Khi chăn gối, buổi
cơm canh,
Mấy mươi năm vẫn
lòng thành trước sau.
Phải người vợ kính
lâu nên trễ,
Thử lấy kim châm kẽ
ngón tay,
Bỗng đâu giọt máu
chảy ngay,
Ai hay tượng gỗ lâu
ngày thiêng sao?
Khi đến bữa, chồng
vào đặt lễ,
Mắt tượng rơi hàng
lệ chứa chan,
Xét xem mới biết
nguồn cơn,
Nổi bùng lá giận,
dứt tan dây tình,
Há phải nhẫn, mà
đành phụ nghĩa,
Hiếu với tình nặng
nhẹ phải cân,
Cho hay thành hẳn
nên thần,
Há rằng u hiển, mà
phân vong tồn.
13. Lục Tích
Hán Lục Tích thuở
còn sáu tuổi,
Quận Cửu Giang đến
với họ Viên,
Trẻ thơ, ai chẳng
yêu khen,
Quýt ngon đặt tiệc
tiểu diên đãi cùng.
Cất hai quả vào ngay
trong áo,
Tiệc tan xong, từ
cáo lui chân,
Trước thềm khúm núm
gửi thân,
Vô tình quả quýt nảy
lăn ra ngoài.
Viên trông thấy,
cười cười hỏi hỏi,
"Sao khách hiền
mang thói trẻ thơ?"
Thưa rằng: "Mẹ
vốn tính ưa,
"Vật ngon dành
lại để dưa mẹ thì."
Viên nghe nói, trọng
vì không xiết,
Bé con con mà biết
hiếu thân,
Cho hay phú giữ
thiên chân
Sinh ra, ai cũng sẵn
phần thiện đoan.
14. Giang Cách
Hán Giang Cách cô
đơn từ bé,
Bước truân chuyên
với mẹ đồng cư,
Ðương cơn loạn lạc
bơ vơ,
Một mình cõng mẹ vẩn
vơ dọc đường.
Từng mấy độ chiến
trường gặp giặc,
Giặc cố tình hiếp
bắt đem đi,
Khóc rằng:
"Thân mẹ lưu ly,
"Tuổi già, bóng
chếch biết thì cậy ai?"
Giặc nghe nói thoắt
thôi, chẳng nỡ,
Rồi dần dà qua ở Hạ
Bì,
Dấn mình gánh mướn,
làm thuê,
Miễn nuôi được mẹ,
quản gì là thân.
Mọi đồ vật sắm dần
đủ hết
Áng xuân phong tươi
nét từ nhan,
Cho hay những lúc
gian nan,
Thật vàng, dẫu mấy
lửa than cũng vàng.
15. Hoàng Hương
Ðời Ðông Hán, Hoàng
Hương chín tuổi,
Khuất bóng từ dòi
dõi nhớ thương,
Hạt châu khôn ráo
hai hàng,
Tiếng đồn vang dậy
trong làng đều khen.
Thờ nghiêm phụ cần
chuyên, khuya sớm,
Ðạo làm con chẳng
dám chút khuây,
Trời khi nắng hạ
chầy chầy,
Quạt trong màn gối,
hơi bay mát rầm.
Trời đông buổi sương
đầm, tuyết thắm,
Ấp hơi mình cho ấm
chiếu chăn,
Vì con, cha đưọc yên
thân,
Bốn mùa không biết
có phần hạ, đông,
Tiếng hiếu hạnh cảm
lòng quận thú
Biển nên treo chói
đỏ vàng son,
Cho hay tuổi trẻ mà
khôn,
Nghìn thu biết đạo
làm con mấy người?
16. Vương Thôi
Ngụy Vương Thôi gặp
đời Tây Tấn,
Vì thù cha lánh ẩn, cao bay,
Bên mồ khóc đã khô cây,
Trọn đời ngồi chẳng hướng Tây lúc nào.
Khi sấm sét tìm vào
mồ mẹ,
Lạy khóc rằng: "Con trẻ ở đây ."
Bởi vì tính mẹ xưa nay,
Vốn từng sợ sấm những ngày gió mưa.
Nên coi sóc chẳng từ
sớm tối,
Thần phách yên, dạ mới được yên,
Trong khi đọc sách giảng truyền,
Tới câu "sinh
ngã" lệ tràn như tuôn.
Ngập ngừng kẻ cấp môn cũng cảm,
Thơ "Lục Nga" chẳng dám còn ngâm,
Cho hay thử lý, thử tâm,
Sư, sinh cũng tấm tình thâm, khác gì .
17. Ngô Mãnh
Tấn Ngô Mãnh tuổi
thì lên tám,
Lòng sự thân chẳng
dám khi nhàn,
Cực về một nỗi bần
hàn,
Có giường trong đặt,
không màn ngoài che.
Trời đương buổi đêm
hè nóng nảy,
Tiếng muỗi kêu vang
dậy đương mùa.
Xót thay! hai đấng
nghiêm, từ,
Ðể người chịu muổi,
bây giờ biết sao?
Nghĩ da thịt phương
nào thay lấy?
Quyết nằm trần, muỗi
mấy chẳng xua,
Rầu lòng cho muỗi
được no,
Ðể người êm ái giấc
hoè cho an.
Tuổi tuy bé, nhưng
gan chẳng bé,
Dạ ái thân đến thế
thời thôi.
Cho hay phú tính bởi
trời,
Những đau trong
ruột, dám nài ngoài da.
18. Vương Tường
Người Vương Tường
cũng là đời Tấn,
Tủi huyên đường sớm
lẩn bóng xa.
Mẹ sau gặp cảnh chua
ngoa,
Tiếng gièm thêu dệt
với cha những điều.
Lòng cha chẳng còn
yêu như trước,
Mẹ thương muốn bữa
sinh ngư,
Giá đông trời lạnh,
bây giờ tìm đâu?
Trên váng đóng,
quyết cầu cho thấy.
Cởi áo nằm rét mấy
cũng vui.
Bỗng đâu váng lở làm
hai,
Lý ngư may được một
đôi đem về.
Bữa cung cấp một bề
kính thuận,
Mẹ cha đều đổi giận
làm lành,
Cho hay hiếu cảm tại
mình,
Dẫu trăm giận, lúc
hạ tình cũng thôi.
19. Dương Hương
Tấn Dương Hương mới
mười bốn tuổi,
Cha bước ra hằng
ruổi theo cha.
Phải khi thăm lúc
đường xa,
Chút thân tuổi tác
thoắt xa miệng hùm.
Ðau con mắt, hầm hầm
nổi giận,
Nắm tay không, vơ
vẩn giữa đường,
Hai tay chặn dọc, đè
ngang,
Ra tay chống đối với
hổ lang một mình.
Hùm mạnh phải nhăn
nanh, lánh gót,
Hai cha con lại một
đoàn về.
Cho hay hiếu mạnh
hơn uy,
Biết cha thôi lại
biết chi có mình.
20. Mạnh Tông
Ngô Mạnh Tông phụ
thân sớm khuất,
Thờ mẫu thân lòng
thực khăng khăng.
Tuổi già trằn trọc,
băn khoăn,
Khi đau nhớ bát canh
măng những thèm.
Trời đông tuyết biết
tìm đâu được
Chốn trúc lâm phải
bước chân đi.
Một thân ngồi tựa
gốc tre,
Ôm cây kêu khóc, nằn
nì với cây.
Giữa bình địa phút
giây bỗng nứt,
Mấy giò măng, mặt
đất nổi lên,
Ðem về điều đặt bữa
canh,
Ăn rồi bệnh mẹ lại
lành như xưa.
Măng mùa lạnh bây
giờ mới thấy,
Ðể về sau nhớ lấy cỏ
cây.
Cho hay hiếu động
cao dày,
Tình sâu cũng khiến
cỏ cây cũng tình.
21. Sửu Kim Lâu
Sửu Kim Lâu có danh
Tề quốc
Huyện Bình Lăng nhậm
chức thân dân.
Tới nha chưa được
một tuần,
Mồ hôi như dội, tâm
thần thường đau.
Treo ấn ruổi vó câu
buồn bã,
Về thăm cha, bệnh đã
hai ngày.
Nếm dơ vẫn cứ lời
thầy,
Ngọt ngào đầu lưỡi,
chua cay trong lòng.
Thấy chữ dạy:
"Bệnh trung nghi khổ"
Ước làm sao bệnh đỡ
mới cam.
Ðêm đêm hướng Bắc,
triều tam,
Xin đem tánh mạng
thay làm thân cha.
Lòng cầu khẩn thấu
tòa tinh tú,
Chữ bình an vui thú
đình vi.
Cho hay mảy động
huyền vi,
Thay mình truyện
trước còn ghi kim bằng.
22. Dương Thị
Dâu họ Thôi, ai bằng
Dương thị,
Thương mẹ chồng niên
kỷ đã cao,
Không răng, ăn dễ
được nào,
Ngày ngày lau chải,
ra vào thăm coi.
Lấy sữa ngọt thay
mùi cơm cháo,
Mấy năm trời chẳng
gạo mà no.
Vì đâu dốc dạ thờ
cô,
Da mồi, tóc bạc, bốn
mùa như xuân.
Ơn lòng ấy khôn phần
báo lại,
Buổi lâm chung, nhủ
với hoàng thiên,
Xin cho nguyền được
như nguyền,
Dâu dâu ngày khác
lại hiền như dâu.
Ai nghe cũng răn
nhau hiếu kính,
Cửu Thôi gia hưng
thịnh đời đời.
Cho hay gia khánh
lâu dài,
Báu nào còn báu hơn
người dâu ngoan.
23. Châu Thọ Xương
Châu Thọ Xương làm
quan Tống đại,
Mẹ sinh ra bảy tuổi
lìa lòng.
Bởi vì đích mẫu
chẳng dung,
Ðem thân bồ liễu bạn
cùng nước non.
Muôn nghìn dặm mẹ
con xa cách
Năm mươi năm trời
đất bơ vơ.
Sinh con những tưởng
cậy nhờ,
Cái thân sung sướng
bây giờ mà chi?
Bỏ quan chức, quyết
đi tìm tõi,
Nặng lời thề nói với
gia nhân,
Thân này chẳng gặp
từ thân,
Thời liều sống thác
với thân cho đành.
24. Tăng Trực
Triều Nguyên Hữu có
thầy Tăng Trực,
Là họ Hoàng ngồi
chức sử thần,
Ơn vua đã nhẹ tấm
thân,
Phận con, vẫn giữ
thờ thân như ngày.
Ðồ dơ bẩn tự tay lau
chuốt,
Việc tầm thường
chẳng chút đơn sai,
Há rằng sai khiến
không ai,
Ðem thân quan trọng
thay người gia nô.
Chức nhân tử phải
cho cần khổ,
Có mẹ cha mới có
thân ta,
Cho hay đạo chẳng ở
xa,
Hãy làm hiếu tử mới
ra trung thần.
Bấy nhiêu tích cổ
nhân về trước,
Cách nghìn xưa như
tạc một lòng.
Kể chi kẻ đạt, người
cùng,
Lọt lòng ai trốn
khỏi vòng di luân.
Buổi công hạ cảm
thân dày đội,
Xa
hương quan, gần cõi Thánh Hiền.
Trông vào những thẹn
bóng đèn
Muốn lưu gia phạm,
nên truyền quốc âm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét