Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2015

Phát hiện mới về thám hoa Nguyễn Danh Thực

Phát hiện mới về thám hoa Nguyễn Danh Thực
Nguyễn Danh Thực (có sách viết là Nguyễn Văn Thực) sinh năm Tân Mùi (1631), người làng Bưởi Nồi, Đại Bái (Gia Bình). Ông mồ côi cha từ nhỏ.
Bưởi Nồi có nghề gò đồng nổi tiếng, lại là làng quê khoa bảng thịnh đạt cũng rất nổi tiếng với các vị đại khoa: Phạm Hoảng (đỗ Hoàng giáp năm 1535), Nguyễn Hoằng Diễn (đỗ Hoàng giáp năm 1541), Nguyễn Hoằng Ngạn (đỗ Hoàng giáp năm 1550), Nguyễn Thầm (đỗ Tiến sĩ năm 1559), Nguyễn Kì Phùng (đỗ Hoàng giáp năm 1580), Nguyễn Công Tạo (đỗ Tiến sĩ năm 1640). Bưởi Nồi còn vị võ tướng rất nổi tiếng là Gia quận công Nguyễn Công Hiệp, trấn thủ Nghệ An, người có nhiều công lao với quê hương như dựng cầu qua sông Bái Giang, làm chùa Diên Phúc, chùa Tĩnh Lự và đề ra “Tết cùng” ở làng.
Truyền thống quê hương hun đúc lòng ham học, chí tiến thủ trong chàng trai nghèo Nguyễn Danh Thực. Năm 1648 mới 17 tuổi ông đi thi Hội vào đến Tam trường, đỗ Sĩ vọng và được vào làm việc ở bộ Hộ. Khoa thi Kỉ Hợi (1659) ông lại ứng thí và đỗ Tam khôi Thám hoa, cùng với Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trịnh và bảng nhãn Nguyễn Văn Bích.
Sau khi thi đỗ ông được làm ở Hàn lâm viện, tước Hải Sơn nam. Năm sau ông được cử giữ chức Tham chính Thanh Hoá. Tại đây ông làm rõ và nghiêm trị bọn Lê Liêu Nguyên về những hành động nhũng lạm bất minh, vụ án nổi tiếng thời bấy giờ, mọi người đều kính phục. Vua Lê Huyền Tông đặc cách thưởng cho ông 100 quan tiền và chuyển về triều nhận chức Hồng lô tự khanh. Năm 1667 ông theo chúa Trịnh Căn đánh quân Mạc ở Cao Bằng có công được thăng Binh bộ thị lang kiêm Phó Đô ngự sử. Năm 1673 ông được thăng chức Lại bộ tả thị lang. Năm 1683 kiêm thêm chức Bồi tụng, Đô Ngự sử đài, Nhập thị kinh diên, tước Hải Sơn tử. Đến năm 1690 ông được thăng chức Binh bộ thượng thư. Năm 1693 ông mất khi đang chức, được triều đình truy phong Tham tụng, Lại bộ thượng thư, tước Hải quận công.
Nguyễn Danh Thực làm quan trung thực, thanh liêm. Khi mới làm quan, làng làm đường nhưng ông chưa kịp đóng góp, khi về làng ông rất ân hận. Đến khi được triều đình thưởng tiền ông đã dùng toàn bộ tiền ấy làm con đường Dinh ở làng, nay vẫn còn. Sau đó ông nhiều lần được cử coi thi Hội và lấy đỗ nhiều nhân tài cho đất nước như Đặng Đình Tướng (1670), Nguyễn Đăng Đạo (1683), Vũ Thạnh (1685)… Thám hoa Nguyễn Danh Thực là người sáng suốt nhận thấy sự phù phiếm của văn chương khoa cử kiểu tầm chương trích cú, xa rời thực tế và có tờ Khải dâng lên chúa Trịnh đề xuất cải cách giáo dục lấy mẫu thời Hồng Đức.
Chúa Trịnh nghe theo và năm Quý Dậu (1693) quy định: “Từ nay trở đi phép thi nhất nhất theo thể văn Hồng Đức. Khi làm văn, tuỳ đầu bài hỏi, tự ý mình nghĩ riêng ra mà đối đáp, chứ không viết trầm theo bài văn cũ học”. Tiếc rằng sự nghiệp cải cách giáo dục thời kì này bị dở dang vì người đề xuất đã qua đời vào ngay năm ấy (1693).
Thám hoa Nguyễn Danh Thực để lại tác phẩm không nhiều. Trước đây người ta sưu tầm được một số bài văn bia do ông soạn ở các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Thanh Hoá gồm: Diên Phúc tự bi (Bia chùa Diên Phúc xã Đại Bái huyện Gia Bình tạo năm Nhâm Dần 1662), Bái Thượng đình bi kí (Bia đình Bái Thượng xã Ngọc Xuyên huyện Gia Bình tạo năm Quý Mão 1663), Diên Lộc phường tân tạo (Bia đình Diên Lộc thờ tổ nghề đồng tạo năm 1686), Thần Phật chi bi (Bia chùa Tố Linh xã Phú Tứ huyện Gia Bình tạo năm 1687), Phụng sự bi ký (Bia ở huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa dựng năm 1686 để tưởng niệm bà Hoàng Thái hậu Phạm Thị Hậu, vợ vua Lê Thần Tông). 
Gần đây chúng tôi đi điền dã ở chùa Bảo Phúc (Đổng Lâm - Quỳnh Phú - Gia Bình) đã phát hiện ra một tấm bia đá do Thám hoa Nguyễn Danh Thực soạn. Đó là bia Từ Phật bi kí có bốn mặt bằng nhau, khắc chữ cả bốn mặt, chôn sâu ở ngay gần cổng chùa. Bia dựng ngày tốt tháng mạnh xuân (tháng Giêng) niên hiệu Chính Hòa thứ 10 (1689). Nội dung văn bia có câu: “Từng nghe, Phật pháp ngày càng sáng tỏ như ánh mặt trời, làm việc nhân đức, hiền từ bác ái, thương yêu vạn vật, biết Phật không ở xa mà ở ngay tại tâm mình vậy”. Sau khi kể công lao nhân vật Nguyễn Phúc Thắng có tâm bỏ tiền của tu tạo chùa, văn bia có bài minh: “Phật há vô tâm/Tâm tức là Phật/Ngôi chùa dựng thành/Bảo điền dâng cúng/Điều thiện ngợi khen/Công lao khó thuật/Phật phát người tôn/Sau trước xứng đôi/Danh tuy có khác/Việc lại như một/Giáng lâm phúc lành/Làng vui yên ổn/Muôn đời như thế/Than ôi tốt lành”.
Phạm Thuận Thành

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét