Thứ Ba, 4 tháng 6, 2013

TÔI MỚI ĐƯƠC PHONG LÀ TIẾN SĨ

    TÔI MỚI ĐƯỢC PHONG LÀ TIẾN SĨ

             Nói thế nhưng các bạn đừng  nghĩ  rằng tôi được cấp Bằng Tiến sĩ (thật) theo Luật Giáo dục hiện nay.
            Chả là năm nay  Quý Tỵ 2013, tới tuổi 65, tôi vinh dự được dân làng cử ra vệ sinh quét dọn,  thắp hương tại Nghè của làng, cùng với ông Nguyễn Hữu Thủy  trong  thời gian một năm, ngày 2 lần. Vì vậy, có người nói đùa, “ phong” cho tôi là “ ông Nghè” . Ông Nghè, như ngày xưa  chẳng là Tiến sĩ ?
          Đã là “ ông Nghè”, ít nhiều phải có một chút hiểu biết về Văn hóa Đình, Nghè, miếu phủ; lỡ có các em, các cháu  hỏi thì mình còn có một số kiến thức sơ đẳng mà trả lời. 
          Vậy là tôi hỏi các cụ cao tuổi trong làng, hỏi những người xung quanh, đọc trên báo chí, tài liệu, sách vở và  tập hợp một số bài viết sau  đây, bạn nào quan tâm thì tham khảo thêm.

  Bài 1:        Vị thế của đình làng trong đời sống của người Việt

Thiết chế văn hoá của người Việt (Kinh) được hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trở thành kỷ cương, linh hồn và ngưỡng vọng của mỗi người dân. Một cơ sở vật chất của thiết chế văn hoá đó có đình làng là rất quan trọng, nó là ngôi nhà chung của cư dân mỗi làng xã người Việt, tương tự như nhà rông của đồng bào Tây Nguyên, hay nhà gơl của người Cà Tu (miền núi Trung bộ)... 

Thông thường một tộc người, một đơn vị dân cư, một đơn vị hành chính cơ sở đều có một ngôi nhà chung để giải quyết những vấn đề luật tự, luật pháp, tín ngưỡng, tôn giáo và những nhu cầu văn hoá của cộng đồng. Buổi đầu có thể là ngôi nhà của thủ lĩnh, của tộc trưởng. Khi tín ngưỡng phát triển, luật pháp được đề cao, thì cơ sở vật chất của cộng đồng cư dân theo đơn vị hành chính thấp nhất (làng, bản, buôn, sóc...) dần tách khỏi sự ràng buộc của những cá nhân, để ngôi nhà chung hình thành. Đối với người Kinh đó là đình làng. Có thể nói, trong lịch sử, nơi nào có người Việt tụ cư thành làng xã, phố phường là ở đó có đình làng. Những thợ thủ công lên Thăng Long làm ăn đã xây đình tại phố, thờ vọng Thành hoàng làng, như thợ đóng giầy của Tam Lâm (gia tộc), thợ nhuộm Đan Loan, thợ Vàng bạc Châu Khê (Bình Giang)...

Làng, trước Cách mạng, trong văn bản pháp quy gọi là xã, đơn vị hành chính cơ sở. Dưới làng còn có thôn, xóm, trại ấp... Đây là những đơn vị dân cư phụ thuộc, không có tổ chức hành chính riêng. Sau Cách mạng tháng Tám. Nhà nước tổ chức lại đơn vị hành chính cơ sở, thực hiện liên xã, nghĩa là góp nhiều làng cũ thành một xã mới, trong đó có một số xã cũ khá lớn được giữ nguyên, không phải hợp nhất, hoặc được chia tách trong CCRĐ. Trường hợp này không nhiều. Phần lớn xã hiện nay gồm 2-3 làng xã cũ hợp lại.

Thông lệ, mỗi làng xưa có một đình, những làng lớn hoặc giầu có do nhiều lý do riêng mà có tới 2-3 đình. Làng Bồ Dương, Ninh Giang có hai đình lớn, gọi là đình Đông và đình Tây ở cùng một khuôn viên, nhưng cùng thờ một Thành Hoàng. Mỗi xã hiện nay có thể có từ 2-3 đình đã khá nhiều. Song qua chiến tranh mà phần lớn chỉ còn dưới phế tích hoặc mới khôi phục trong những năm gần đây.

Theo quốc sử thì đình được ghi nhận muộn hơn so với đền, miếu, chùa, quán. năm Tân Mão, Kiến Trung thứ 7 (1231) “Thượng hoàng (Trần Thái Tông) xuống chiếu rằng, trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ.

Trước đây, tục nước ta vì nóng bức nên làm nhiều đình cho người đi đường nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là đình trạm. Thượng hoàng khi còn hàn vi từng nghỉ ở đó...” (Đại Việt sử ký toàn thư). Như vậy đình ban đầu là đình trạm, nơi dừng chân của những người đi đường (thượng chí vua, hạ chí dân). Đình có thời mang chức năng như một ngôi chùa, đôi khi như một hành cung của nhà vua. Có lẽ vì thế mà hậu cung các đình sau này thường có bức đại tự: Thánh cung vạn tuế- Thánh thể muôn năm (Chữ cung ở đây có nghĩa là thân thể).
 Một dạng đình khác còn có nghĩa là nơi dừng chân để ngắm cảnh như: Vọng giang đình, lương đình. Ở Côn Sơn xưa có Đình Thấu Ngọc, một chiếc cầu có mái kiểu thượng gia hạ kiều, để người qua đó có thể dừng chân ngắm cảnh.
Thời nhà Hán ở Trung Quốc, chia đất cứ 1 dặm vuông có một đình, 10 đình là một làng, người trông coi việc làng gọi là đình trưởngmột dạng như lý trưởng của làng xã Việt Nam. Đình ở đây còn là đơn vị hành chính, đơn vị dân cư.

Khoảng từ thế kỷ X
V, Đình trở thành trung tâm chính trị, văn hoá, xã hội của làng xã người Việt. Ba yếu tố trên thường xuyên diễn ra ở đình làng, không dễ gì tách bạch ra từng yếu tố.


Về mặt chính trị:  Đình là trụ sở hành chính của làng xã, hầu hết công việc của chính quyền cơ sở giải

 quyết tại đây. Nó mang chức năng tương tự như trụ sở của UBND xã hiện nay. Sau Cách mạng 

Tháng Tám, phần lớn UBHC xã lập trụ sở tại đình.




Về mặt văn hoá: Đình làng là một trung tâm tín ngưỡng, hoạt động văn hoá, văn nghệ, giáo dục truyền

 thống, duy trì những thuần phong mỹ tục. Khoảng từ thếkỷ XV, đình không còn chức năng thờ 

Phật như trong những thế kỷ trước, mà là nơi thờ Thành hoàng. Nó không phụ thuộc một tôn giáo 

nào. Thành hoàng có thể là những người có công với nước, với dân... Thành hoàng làng cũng có 

thể là người có công đầu trong việc lập làng, hoặc khởi xướng một ngành nghề, tức các vị tổ 

nghề. Đôi khi Thành hoàng làng chỉ là những nhân vật huyền thoại. Đình cũng có thể thờ 

những anh hùng cái thế của dân tộc, từ vua chúa đến các danh nhân, các vị tổ các dòng họ có 

công lập làng và những người có nhiều công đức với làng tuy không được tôn làm Thành 

hoàng. Thành hoàng làng có thể có từ 1 đến 7-8 vị. Thành hoàng làng được thờ đều có thần 

tích hay thần phả ghi tiểu sử và các tiết lệ tế lễ hàng năm. Tiểu sử chủ yếu do Bộ Lễ biên soạn, 

lưu ở trung ương và có bản sao cho các nơi thờ phụng. Thảng hoặc có nhân vật được tôn vinh làm 

Thành hoàng làng, khi còn đang sống, gọi là sinh phong, như trường hợp danh tướng Đinh Văn Tả ở 

thế kỷ XVII, quê tại Hàn Giang, nay thuộc thành phố Hải Dương. Dù là thiên thần hay nhân thần thì 

Thành hoàng làng vẫn biểu trưng cho thần quyền của cư dân của một làng xã. Các dòng họ, mọi 

thành viên trong làng đều phải phục tùng các hương ước, trong đó có việc tránh các tên huý và thực 

hiện một số luật tục hoặc lệ làng. Chính vì thế mà đình làng được xây dựng ở nơi trung tâm, cao ráo, 

thoáng đãng với quy mô bề thế nhất trong hệ thống cơ sở thiết chế văn hoá của làng xã. Đình thường 

được xây dựng ở vị trí trước chùa hoặc nhà thờ để xác định vị thế của thần quyền cũng như chính 

quyền ở làng xã trong mối quan hệ với các tôn giáo tín ngưỡng.

Thành hoàng làng đều có ngày sinh, ngày hoá, ngày khánh hạ. Đây là những ngày lễ trọng. Đối với các tỉnh phía Bắc, dân chúng thường chọn một trong ba ngày đó, vào thời gian nông nhàn và mát mẻ để mở hội làng, thông thường là vào mùa xuân hoặc cuối thu sang đông. Trong những ngày hội, mọi trò diễn dân gian được dịp thăng hoa, tạo nên niềm tin và hy vọng cho một cộng đồng làng xã và cũng nhằm nuôi dưỡng và phát triển nền văn hoá truyền thống của dân tộc. Đêm giao thừa, mọi nhà đều có người đến đình làng để thắp hương lễ Thành hoàng làng hoặc ra chùa lễ Phật, khi về thường hái một cành lộc để lấy may. Các thành viên làng xã, từ nhỏ, đã được cha dẫn đến đình để học lễ nghi, những thuần phong mỹ tục, cấm kỵ những việc làm thất đức, hỗn xược... Những việc làm như thế có tác dụng giáo dục rất lớn, nó quy định hành vi, tình cảm, nếp sống của cả cộng đồng.

Về mặt xã hội:
Đình làng là nơi giải quyết những vấn đề xã hội của làng xã. Giải quyết tốt các vấn đề về chính trị và văn hoá là đã giải quyết căn bản vấn đề xã hội, không những thế, đình làng còn là nơi hội họp, giải quyết mọi chuyện vui, buồn của xã thôn, hoà giải những bất đồng trong nội bộ cộng đồng. Chính vì vị thế của đình làng như vậy mà mọi thành viên trong làng đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ. Người ta giành cho đình làng cơ sở vật chất tốt nhất, những tài năng siêu việt nhất trong quá trình xây dựng, đồng thời cũng cung tiến cho đình những đồ tế tự quý báu nhất. đình Mộ Trạch (Bình Giang) bị tàn phá, năm Tân Mùi, Cảnh Hưng thứ 12 (1751), bà Nhữ Thị Nhuận, một phụ nữ tài danh đương thời đã cung tiến cho làng 3000 quan tiền để làm lại đình, lại bỏ 200 quan và 10 mẫu ruộng cho làng để đèn hương và bảo dưỡng ngôi đình lâu dài. Đây chỉ là một ví dụ trong muôn vàn trường hợp người dân tự nguyện đóng góp xây dựng đình trong lịch sử. Buổi đầu đình làng có thể còn là ngôi nhà giản dị, qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo mới có những ngôi đình to lớn mà một vài làng xã còn bảo tồn được đến nay. Có những ngôi đình được nhân dân đóng góp, tích luỹ hàng chục năm mới tiến hành xây dựng, như Đình Bảng (Bắc Ninh).

 

Có thể nói, đình là công trình kiến trúc lớn nhất của làng xã. Nó là đặc điểm, là một hiện thân văn hoá của người Việt, ở đó văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần (mà nay chúng ta gọi là văn hoá phi vật thể) cùng tồn tại và phát triển. Tinh hoa văn hoá nơi thôn dã là một thứ văn hoá nền tảng, tạo nên bản sắc dân tộc, không chỉ được diễn tả, nâng cao bằng các trò diễn dân gian qua mỗi mùa hội làng mà nó còn kết tinh định hình ở các bức chạm trên các chi tiết của kiến trúc.

Điêu khắc trang trí của đình làng phổ biến là: tứ linh, tứ quý, hoặc tách ra từng cá thể: long, ly, quy, phượng; thông, mai, cúc, trúc; đặc biệt là hình ảnh về hoạt cảnh dân gian, những hình ảnh thân thuộc ở làng quê. Ngoài những đề tài kinh điển, mỗi người thợ còn tuỳ theo nhận thức và khả năng diễn tả của mình mà chạm khắc những hình ảnh lấy ra từ hiện thực cuộc sống đương thời. Cùng một đề tài, một chi tiết trang trí như nhau, mỗi hiệp thợ lại có cách thể hiện riêng, tạo nên sự phong phú và đa dạng. Tài năng của nghệ nhân kiến trúc cổ nói chung ở chỗ: biến các chi tiết, các thành phần kết cấu vốn thực dụng chuyển sang mang dáng vẻ hấp dẫn, giảm đi cảm giác nặng nề, thô phác, mà trở thành những tác phẩm nghệ thuật dân dã, hồn nhiên và ý nhị. Trong số đó cũng không thiếu tác phẩm đạt tới trình độ điển hình của từng thời đại.

Trong khuôn viên của đình thường có: sân đình, hồ nước, hoặc bến sông và chợ làng. Sân đình ngoài chức năng tạo sự bề thế thì còn là nơi diễn ra những trò diễn dân gian cũng như những việc chung của cộng đồng. Cây cối tượng trưng cho sự sung mãn và trường tồn, nó thu hút chim muông, tượng trưng cho sự phồn thịnh của một vùng quê, chúng như một chiếc máy điều hoà không khí, tạo nên một tiểu khí hậy mát mể. Nước là một nguồn sống quan trọng của cư dân. Hồ/giếng đặt ở nơi thiêng liêng sẽ được giữ gìn trong sạch hơn. Bến sông là đầu mối giao thông, một đặc điểm của vùng châu thổ, tạo nên mối giao lưu thuận tiện, đặc biệt là vào dịp lễ hội. Chợ làng, nhất là chợ chiều là một thị trường không thể thiếu trong sinh hoạt của cư dân làng xã. Cây đa, giếng nước, bến sông, sân đình đã đi vào tâm khảm của biết bao thế hệ. Nó trở thành hoài niệm của những người con xa xứ. Nó nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước của cộng đồng người Việt. Những người xa quê dù một đời hay nhiều đời, khi trở về cố hương, đều có thể đến đình thắp hương, tưởng nhớ các bậc tiền bối và đều có quyền tự hào về đình làng của mình.

Đình làng giữ vai trò to lớn với người Việt, đến mức bất cứ một việc gì to lớn đều ví với đình: việc lớn tầy đình, lớn bằng cột đình... Đình làng cũng đã đi vào thơ ca:

Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh.
Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.

Những ngôi đình lớn và đẹp thường được xây dựng ở thế kỷ XVI - XVII - XVIII Đình Tây Đằng, Hoàng Xá, Chu Quyến (Hà Tây), Đình Bảng (Bắc Ninh), Đình Hàng Kênh (Hải Phòng), đình Trà Cổ (Quảng Ninh)... là những ngôi đình tiêu biểu của đất nước. Đình Nhân lý (Nam Sách), Thạch Lỗi (Cẩm Giàng), Bồ Dương (Ninh Giang) tuy không còn được nguyên vẹn nhưng đều là những ngôi đình lớn và tiêu biểu về nghệ thuật kiến trúc ở Hải Dương mang niên đại vào thế kỷ XVII - XVIII. Đình Huề Trì (Kinh Môn, Hải Dương) có kiến trúc độc đáo, với bình diện vuông, nhìn bốn mặt đều thấy một mái dài rộng bề thế, là một trong những ngôi đình có diện tích lớn bậc nhất của đất nước, trên 620m2. Đình Chu Quyến (Hà Tây) với kiến trúc gỗ đồ sộ, đường kính cột gần 80cm. Chúng ta biết rằng, cách đây 3-4 thế kỷ, dân còn thưa, đời sống còn thấp kém mà mỗi làng xã đã tự dựng thành công một ngôi đình to lớn, xứng đáng là những công trình văn hoá. Năm 1900 làng Nhân Lý có số dân mới xấp xỉ 900 khẩu, trước đó hơn 2 thế kỷ hẳn số dân còn thấp hơn nhiều, trong làng chỉ có vài ba ngôi nhà ngói nhỏ và hẳn còn nhiều người đóng khố, cởi trần mà đã dựng thành công một ngôi đình lớn với nhiều bức chạm xứng đáng là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu. Đây là một bằng chứng hùng hồn về ý chí và sức mạnh của cộng đồng người Việt trong việc xây dựng làng xã, vươn tới những đỉnh cao văn hoá trong hoàn cảnh biết mấy khó khăn. Thiếu vắng những công trình như vậy lấy gì chứng minh cho nền văn minh của quá khứ tại các làng xã Việt.

Có nhu cầu làm đình, tất phải có thợ làm đình, một công trình văn hoá to lớn như vậy, các làng xã khó có thể tự làm lấy được. Dựng một cái đình ít nhất phải có hai hiệp thợ chính và một số thợ thủ công khác liên kết lại để thực hiện, như: mộc, nề, ngoã, đá, chạm khảm, sơn... tham gia liên tục hàng năm mới có thể hoàn thành, tuy vậy, phần chính vẫn thuộc về nghề mộc. Do đặc điểm và quy mô của công trình thợ làm đình tách khỏi nghề mộc thông thường, lập thành từng hiệp, như một tổ chức riêng, có khi thành làng nghề thủ công. ở đồng bằng Bắc bộ nhu cầu làm đình rất lớn nên đã hình thành những hiệp thợ của làng chuyên làm đình và sản phẩm là những công trình to lớn có bộ khung bằng gỗ từ những thế kỷ trước, Cúc Bồ thuộc Ninh Giang, Hải Dương là một làng như thế.

Trải qua hai cuộc chiến tranh và những biến động xã hội, đình làng của chúng ta còn lại không nhiều. Cái hiện còn thường không đồng bộ, cái mất hậu cung, cái không còn tiền tế, cổ vật thì thưa vắng dần. Hơn 40 năm qua, thực hiện chủ trương của Nhà nước, một số ngôi đình tiêu biểu đã được xếp hạng, từng bước được trùng tu tôn tạo. Gần đây một số làng xã được nhân dân hưởng ứng đã làm lại đình trên nền cũ. Tai xã Yết Kiêu (Gia Lộc) có gia đình cung tiến hơn 100 triệu đồng để xây lại đình làng, Thông Đại Điền, xã Hồng Lạc (Thanh Hà) chỉ trong 5 tháng đã tái tạo một ngôi đình lớn bằng tiền công đức của nhân dân, nhất là những người xa quê. Như vậy, không chỉ ngày xưa mà nay việc làm đình nếu được chính quyền địa phương quan tâm vẫn được nhân daan hưởng ứng tích cực. Thật hạnh phúc cho một dân tộc khi tiềm thức về cội nguồn, về truyền thống văn hoá còn dạt dào trong mỗi người dân.

Do hoàn cảnh hiện nay mà chất liệu có khác, nhưng kiểu dáng vẫn giữ được nét xưa. Hồ/giếng nước được tu bổ, dù không còn là nguồn nước ăn của làng thì cũng là chiếc gương soi của cố hương muôn thuở. Nội dung tín ngưỡng và sinh hoạt cũng phong phú và nhân văn hơn. Nhiều đình nay ngoài việc thờ Thành hoàng còn thờ các anh hùng liệt sĩ của quê hương, đồng thời là nơi hội họp của các tổ chức quần chúng. Xưa, phụ nữ không được vào hậu cung của đình làng, nay nam nữ bình đẳng, các cô, các bà có thể tham gia lễ bái như nam giới. Thuần phong, mỹ tục được phát huy những hủ tục từng bước bị loại bỏ.

Đình làng là một biểu trưng tinh thần của làng xã Việt, ở đây lưu giữ tinh hoa văn hoá của nhân dân thuộc từng thời kỳ lịch sử, nhưng tiếc rằng số làng còn lưu giữ được đình có không nhiều. Hiện nay nhà nước đang tạo điều kiện thuận lợi cho việc dựng lại nhà rông, nhà gươl để duy trì sinh hoạt văn hoá của đồng bào Tây Nguyên, qua đó mà góp phần bảo tồn bản sắc văn hoá từng tộc người. Tin rằng ngôi đình làng của người Việt sẽ được quan tâm, phục hồi, phát huy và tồn tại cùng cộng đồng Việt, để mỗi khi xuân về, đình làng lại là nơi hội tụ những người con quê hương và của những người con xa xứ.

                                                                                               Tác giả : Tăng Bá Hoành

                                       %%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%

Bài 2:        Đình Làng ( báo Dân Việt)

 Không biết có quốc gia nào trên thế giới giống nước ta: Mỗi làng cổ bao giờ cũng có một ngôi đình. Đình thờ thành hoàng, người có công lập ấp mở mang nghề nghiệp chăm lo cho dân, hoặc có công đánh giặc giữ nước.
Đình làng còn là cái "trụ sở" của thôn, là nơi để các cụ tiên chỉ và chức sắc của thôn bàn việc, xử các rắc rối trong thôn theo hương ước. Rồi việc làng còn có cả khoản... cỗ bàn đánh chén tại đình.
Thôn tôi dăm bảy chục hộ cũng có một cái đình. Đình làng tôi thờ tướng Bạch Sam - bộ tướng của Ông Gióng, có công đánh đuổi giặc Ân và được phong ấp, lập thôn...
Xét như vậy, đình làng (chứ không phải chùa) chính là cuốn sử làng. Có thể coi từ khi có Thành hoàng mới là có thôn ấp vậy.
Đến nhiều làng quê Việt, hầu như các làng cổ đều có đình. Những Thành hoàng được thờ trong đình cũng rất nhiều sắc thái công trạng, thông thường là tổ nghề: Nghề rèn đúc, nghề vàng nghề bạc, nghề tằm tơ canh cửi, nghề may, nghề chài lưới... Mỗi vị thần được thờ đều có ghi rõ công trạng ở ngọc phả được cất giữ cẩn thận trong hương án hậu đình cùng với sắc phong của các triều vua. Mỗi ông vua lên là một lần hạ sắc phong ghi nhận công quả các Thành hoàng như đời vua trước đã làm. Việc đó có nghĩa là khẳng định lại một giá trị và cũng là thêm một lần tôn vinh thành hoàng, vị thần cai quản thôn ấp đó.
Đó cũng chính là văn hiến quốc gia.
Đình nào thì mỗi năm cũng có hội đình, có ngày mở cửa đình cho dân làng sở tại dâng lễ thắp hương cúng tế. Trong văn tế có lời kể lại công đức của Đức thành hoàng và thông báo lễ vật dâng hàng năm.
Kháng chiến, có nơi tiêu thổ cả đình. Ở Bắc Ninh, một làng kia có đình bị phá trong đợt tiêu thổ rồi sau đó không được khơi dựng lại. Làng đó coi như đánh mất lịch sử làng.
Đình làng trong ký ức dân gian là vậy nên cộng đồng dân cư của làng đi làm ăn xa khi đủ vật lực thường đóng góp với nhau lập đình thờ vọng về quê để mong Thành hoàng tiếp tục che chở cho mình dù sống trên đất khác. Uống nước nhớ nguồn, tập quán dân gian đó thật đáng quý. Làng xóm bền vững thì quốc gia bền vững là như vậy.
Đỗ Đức


  Bài 3:        Đình  (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Bài này nói về một công trình kiến trúc đặc thù tại Việt Nam; về công trình kiến trúc Á Đông cùng tên, xem Đình (Á Đông).
Đình là một công trình kiến trúc cổ truyền ở làng quê Việt Nam, là nơi thờ Thành hoàng và cũng là nơi hội họp của người dân.

Lịch sử

Trước kia theo tình hình chung của cả nước, đình của các làng mạc Việt Nam chỉ là quán để nghỉ. Năm 1231 Trần Nhân Tông xuống chiếu cho đắp tượng Phật ở đình quán.
Ngôi đình làng với chức năng là nơi thờ thành hoàng và là nơi hội họp của dân chúng có lẽ bắt đầu vào thời Lê sơ và định hình vào thời nhà Mạc.[1] Có lẽ sự phát triển của Nho giáo vào cuối thế 15 đã cấy dần Thành hoàng vào đình làng. Khởi đầu là đình Quảng Văn (1489). Nhưng hiện nay dấu vết sớm nhất của đình làng thì Thành hoàng chỉ gặp từ thế kỷ 16. Trước đây đình thường chỉ có 3 gian và 2 trái. Gian giữa không có sạp, trong gian thờ Thành hoàng. Cuối thế kỷ 17 từ gian giữa và kéo dài về sau gọi là chuôi vồ, tạo cho đình làng mang kiểu chữ Đinh. Cuối thế kỷ 17, nhất là thế kỷ 19, đình làng được bổ sung tòa tiền tế.

Kiến trúc

          Kiến trúc truyền thống được xây dựng dựa trên những nguyên tắc của thuật phong thủy. Địa điểm của đình khác đền chùa. Trong khi chùa và đền chuộng địa điểm tĩnh mịch, có khi u tịch, khuất lối thì đình làng chủ yếu lấy địa điểm trung tâm. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Nếu không có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng có khi đào giếng khơi để có mặt nước phía trước đình cho đúng thế "tụ thủy" vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho làng.[2] Kiểu xây dựng bằng gỗ bao gồm các yếu tố nghiêng về trang trí và chạm khắc.
Đình làng thường là một ngôi nhà to, rộng được dựng bằng những cột lim tròn to thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. kèo, xà ngang, xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim. Tường đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, hai đầu hồi xây bít đốc hoặc làm bốn góc đầu đao cong. Trên nóc đình là hai con rồng chầu mặt nguyệt, tục gọi là "lưỡng long triều nguyệt" hay "lưỡng long tranh châu".
Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con nghê.
Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành hoàng. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng.

Các ngôi đình tiêu biểu

·                    Đình BảngBắc Ninh
·                    Đình Bát Tràng, thôn Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia LâmHà Nội
·                    Đình Thổ Tang, Khu Bắc, Thị Trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh TườngVĩnh Phúc
·                    Đình Tây ĐằngHà Nội
·                    Đình Chu QuyếnHà Nội
·                    Đình Thổ HàBắc Giang
·                    Đình Phù Lão, Bắc Giang
·                    Đình Hoành SơnNam ĐànNghệ An.

                                      -0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-0-



          Bài 4:        Thái học sinh      (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Thái học sinh là học vị cấp cho những thí sinh thi đỗ kỳ thi Hội, một trong những kỳ thi Nho học do triều đình phong kiến tổ chức.
Học vị này xuất hiện từ khoa thi Nhâm Thìn (1232) đời Trần Thái Tông cho đến khoa thi Canh Thìn (1400) đời Hồ Quý Ly, được xem là tương đương học vị Tiến sĩ, hay trong dân gian gọi là ông Nghè, xuất hiện về sau này, từ khoa thi Nhâm Tuất (1442) đời Lê Thái Tông cho tới khoa thi Nho học cuối cùng ở Việt Nam vào năm Kỷ Mùi (1919) đời Khải Định.
             Thảo luận:    Thái học sinh  ( Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
·                    Ông Nghè là một tên gọi khá quen thuộc (nhưng mang nhiều sắc thái khẩu ngữ) của dân gian ta, chỉ những ai đỗ tới bậc tiến sĩ trước đây. Đây là học vị cao nhất trong hệ thống thi cử thời phong kiến.
·                    Muốn đạt được danh hiệu cao quý này, mọi sĩ tử phải đạt được 3 kì thi chính do triều đình nhà nước thời đó quản lí : 1. Thi Hương (thi tuyển lấy tú tài, cử nhân); 2. Thi Hội (thi chọn trong số người đỗ cử nhân để lấy một số người giỏi); 3. Thi Đình (kì thi mở ngay tại sân điện rồng của nhà vua cho những người vượt qua kì thi hội). Như vậy, thi Đình là kì thi cuối cùng, long trọng và khó khăn nhất đối với mọi sĩ tử.
·                    Từ cuộc thi này, nhà vua sẽ trực tiếp chọn ra những tài năng ưu tú nhất của đất nước. Ai đỗ sẽ được gọi là tiến sĩ (đầu bảng tiến sĩ được phong danh hiệu Trạng nguyên). Và để tôn vinh công trạng này, các vị tiến sĩ được triều đình sủng ái đặc biệt, như được dự yến tiệc và nhận phẩm phục vua ban. Sau đó, địa phương nơi vị tiến sĩ sinh ra và lớn lên sẽ tổ chức một lễ đón rước rất linh đình, rầm rộ, thường gọi là Lễ đón tiến sĩ vinh quy (bái tổ).
·                    Thế nhưng tại sao lại có cái tên Ông Nghè để chỉ các vị tiến sĩ? Dân gian ta có câu: “Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng” Và tại sao không gọi là Cụ Nghè, Bác Nghè, hay Anh Nghè … ? Hơn nữa, điều đáng lưu ý là, cái tên Ông hiển nhiên mang tiền giả định là phụ nữ bị loại ra khỏi đối tượng được nhận danh vị này (Có lẽ vì xã hội phong kiến không cho phụ nữ tham gia học hành thi cử). Về thời gian xuất hiện thì cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào nói rõ. Nhưng về nguồn gốc thì hiện có 2 cách giải thích khác nhau:
·                    1.Thứ nhất, theo Từ điển Việt – Bồ – La của A de Rhodes (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, Roma, 1651) định nghĩa nghè là “chức vụ của các bậc văn nhân”. Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí tiến đức (Hà Nội, 1931) và Từ điển Việt Nam của Thanh Nghị (Sài Gòn, 1958) đều định nghĩa nghè là “phòng làm việc trong điện các của nhà vua.
·                    Đời Lê chỉ những người đỗ tiến sĩ mới được vào làm việc trong các, cho nên mới gọi tiến sĩ là ông nghè. Đến triều Nguyễn, những người được vào trong các, dù không đỗ tiến sĩ cũng gọi là nghè”. Các vị tiến sĩ trước khi vào chầu chính thức thường được xếp đứng tại phòng nghè rồi lần lượt tiến vào triều nhận mũ áo vua ban.
·                    2. Còn cách thứ hai thì giải thích là, nghè vốn là một bộ phận kiến trúc của đình – vốn là nơi thờ Thành hoàng và đồng thời là trung tâm hội họp tế lễ của cộng đồng làng xã thời trước. Đình là nơi vừa thân quen, gắn bó, vừa tôn nghiêm, cổ kính. Nghè có thể ở vị trí gần sát đình hay xa hơn một chút, nhưng nó là một bộ phận cấu thành trong quần thể kiến trúc của đình. Nghè cũng có ban thờ, có thể có mái che hoặc có nơi đặt lộ thiên.


·                    Theo quan niệm của nhiều nơi, nghè mới chính là nơi trú ngụ thường ngày của Thành hoàng. Chỉ khi nào có đám người ta mới làm lễ rước Thành hoàng vào đình, xong việc lại rước trở về nghè. Và nếu ở địa phương nào có ai đó đỗ đạt tới bậc tiến sĩ, thì chính các vị tiến sĩ sẽ được vinh dự nhận trọng trách đón rước Thành hoàng. Các vị tiến sĩ lúc này có sắc phục riêng và tuân thủ theo một nghi thức rất long trọng. Vì vậy, họ được gọi là Ông Nghè, với chức trách đứng tại nghè để thực thi công việc tế lễ. (Phải chăng vì vậy mà dân gian dùng đại từ Ông với hàm ý trang trọng?).
                                                                      ----------------------------------------------------
          Bài 5:        Nghè    : ( Theo từ điển mở Wiktionary ):
                                                          Danh từ  nghè chỉ: 
                                            Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng. (tục ngữ)
2 - Thừa phái trong các bộ của triều đình Huế.
     3-   Miếu thờ thần.




                                                              ---------------------------------------------

Bài 6 :       MỪNG ÔNG NGHÈ MỚI ĐỖ
                                                                                      Nguyễn Khuyến

                                    Anh mừng cho chú đỗ ông Nghè,
Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe.
Ân tứ (1) dám đâu coi rẻ rúng,
Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe.
Rượu ngon ả nọ khôn đường tránh, (2)
Hoãn (3) đẹp nàng này khó nhẽ che.
Hiển quí đến nay đà mới rõ,
Rõ từ những lúc tổng chưa đe. (4)

Chú giải:

1. Ân tứ: ơn vua ban.
2. Câu này rút ý câu ca dao:  Em là con gái đồng trinh/ Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè.
Ông nghè sai lính ra ve,/ - Trăm lạy ông Nghè, tôi đã có con./- Có con thì mặc có con./Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan.
3. Hoãn: một loại hoa tai vàng.
4. Câu này rút ý câu tục ngữ:            Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng.



          VIẾT THÊM VỀ KHÁI NIỆM ĐÌNH VÀ NGHÈ

Đình là gì, có từ bao giờ, chức năng của Đình; Thành Hoàng là ai các tác giả nêu trên đã giải thích cho  chúng ta tương đối rõ.
Còn Nghè, với khái niệm ở địa phương ta, nên hiểu như thế nào?
          Một thầy giáo bạn tôi ( đã về hưu) có lần nói với tôi : Làng Đại Mão có Nghè là vì ngày xưa có các cụ đã đỗ Tiến Sĩ; không phải làng nào cũng có Nghè. Và để tôn vinh các Tiến sĩ này, triều đình sủng ái đặc biệt, như được dự yến tiệc và nhận phẩm phục vua ban. Sau đó, địa phương nơi vị tiến sĩ sinh ra và lớn lên sẽ tổ chức một lễ đón rước rất linh đình, rầm rộ, thường gọi là Lễ đón tiến sĩ vinh quy (bái tổ).Trong Lễ đón Tiến sĩ vinh quy, sau khi ở Triều đình về đến quê, Tiến sĩ dừng chân ở Nghè để chức sắc và dân làng ra đón rước về Đình, làm lễ Thành Hoàng rồi mới được về làm lễ báo cáo tổ tiên, khao mừng đỗ đạt… Như vậy đúng ra làng nào có Tiến sĩ mới được lập Nghè. Nhưng sau này nhiều làng cũng lập Nghè, để thờ thần và mong con cháu thành đạt…
          Tôi nghe thấy hơi phân vân : Vậy Nghè có trước hay Tiến sĩ có trước ? Hay là khi biết tin làng mình có người đỗ Tiến Sĩ làng khẩn trương dựng Nghè để chuẩn bị đón Tiến sĩ vinh quy?


         Nghe các cụ trong làng kể về Nghè cũ, tôi nghiêng về cách  giải thích Nghè ( cách giải thích thứ 2- bài 4 nêu trên) : Nghè  là một bộ phận kiến trúc của Đình – vốn là nơi thờ Thành hoàng và đồng thời là trung tâm hội họp tế lễ của cộng đồng làng xã thời trước. Đình là nơi  tôn nghiêm, cổ kính. Nghè có thể ở vị trí gần sát đình hay xa hơn một chút,  là một bộ phận cấu thành trong quần thể kiến trúc của Đình. Nghè cũng có ban thờ, có thể có mái che hoặc có nơi đặt lộ thiên.Theo quan niệm của nhiều nơi, nghè mới chính là nơi trú ngụ thường ngày của Thành Hoàng. Chỉ khi nào có đám người ta mới làm lễ rước Thành hoàng vào đình, xong việc lại rước trở về nghè. Và nếu ở địa phương nào có ai đó đỗ đạt tới bậc tiến sĩ, thì chính các vị tiến sĩ sẽ được vinh dự nhận trọng trách đón rước Thành hoàng. Các vị tiến sĩ lúc này có sắc phục riêng và tuân thủ theo một nghi thức rất long trọng. Vì vậy, họ được gọi là Ông Nghè, với chức trách đứng tại nghè để thực thi công việc tế lễ.
                                                  
Cụ Lê Thị Tải ( năm nay 99 tuổi – bà mẹ VNAH) kể về Nghè cũ: Năm tôi khoảng 8,9 tuổi, thường xuyên chăn trâu bò và xuống chơi với bạn dưới Nghè. Trong các trò chơi, trẻ con lúc đó chơi nhiều trò dân gian, hay chơi trò có những “ đồng tiền” đẽo bằng mảnh sành và hay dấu trong Nghè ( để các bạn khỏi biết và lấy mất). Nghè thời đó có 2 ngôi nhà. Phía trước  là một ngôi nhà năm gian, phía sau 3 gian lợp ngói , gian giữa có cửa, có bệ gạch ở gian giữa - thường là không khóa để mọi người ra vào cúng lễ được tự do ; và ở vị trí  Nghè hiện nay. Lúc đó đường đi từ đê về Đình Chợ và vào trong làng gọi là Đường Nghinh Thần, uốn lượn ngoằn ngoèo, chứ thẳng như bây giờ chỉ có từ thời có Hợp tác xã quy hoạch lại ruộng đồng và đường xá đi lại trong thôn, ngoài đồng.

Một hôm tôi vào trong Nghè để lấy các đồng tiền sành ra chơi, thì thấy một cụ ông, râu dài nằm  trên bệ, thẳng đầu vào trong và đã chết. Chúng tôi sợ quá hô hoán lên, lúc đó người lớn mới biết. Các cụ nói rằng đó là một người ăn mày đi qua  nghỉ chân và bị chết ( đói rét hoặc tật bệnh) ở đấy. Người làng chôn cất cụ già, dán cáo thị và thông báo cho các nơi nhưng sau này không thấy ai đến nhận cả.
Các cụ trong làng cho rằng cụ già chết ở Nghè làm ô uế Nghè làng, vì vậy sau đó dỡ bệ gạch đằng trước, đào đất đổ đi… Rồi Nghè lợp mái bị dỡ đi, không nhớ rõ thời gian nào; sau đó Nghè  được  xây lại  bằng một bệ cao, trở nên lộ thiên ; hai bên trồng hai cây bàng.
Làng Đại Mão hàng năm tổ chức rước sắc phong thần ( do vua ban cho Thành  Hoàng làng) từ Đình xuống Nghè để tế lễ trước khi vào đám. Những năm làng mở Hội ( Tý- Ngọ- Mão- Dậu ) cùng với làng Đại Mão, các làng Thụy Mão và Đông Miếu cũng rước sắc phong thần xuống đó để hội tế vì 3 làng cùng thờ Thành Hoàng Lạc Thị Đại Vương.
                         
Năm 2010, làng Đại Mão tổ chức xây lại Nghè, mắc điện thắp sáng hàng đêm, đi lại đêm hôm qua Nghè  thấy vui vì coi như về đến làng. Từ ngày xây lại Nghè, dân làng cử ông Vũ Quang Tuyên ra trông coi  trong 14 tháng, tiếp đó là ông Nguyễn Đình Bốn và ông Trần Hữu Duệ, sau đó ông Bốn chuyển về Đình, ông Lê Doãn Nhậm làm thay.


Đến  nay, Nghè vẫn là một kiến trúc độc đáo của làng Đại Mão, thờ Lạc Thị Đệ Nhị Đại Vương. Đến lễ ở Nghè, mọi người tự do thoải mái, vô tư hơn đến Đình vì không cần nghi thức cẩn thận như ở Đình. Nhà ai có việc lớn như làm nhà, cưới gả cho con, thậm chí đi làm ăn buôn bán một chuyến xa, đi học hành thi cử…thường có lễ xuống Nghè cầu xin Thành Hoàng và các vị  bộ hạ thần quan phù hộ độ trì cho công việc được suôn sẻ, thuận lợi. 

Hoặc ngày rằm, mồng một đầu tháng, nhiều người cũng “xuống Nghè” để cầu bình an cho gia đình, cầu cho quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt…Nhiều người dân ở các nơi đi qua, cũng rẽ vào Nghè thắp hương, khẩn cầu; nghỉ ngơi chốc lát ngắm cảnh đồng ruộng làng mạc…cho thư thái  trước khi vào trong làng. ( Ngày xưa ở gần Nghè  có tấm biển “ Hạ Mã ”- xuống ngựa - dù là quan hay dân, đi qua Nghè cũng không được ngông nghênh. Ngày nay nhiều anh phóng xe máy bạt mạng qua Nghè đã bị nhiều cái không hay đến với mình… )



Buổi sáng hàng ngày, nhiều người già có trẻ có, đi bộ xuống đê, qua Nghè tập thể dục. Buổi chiều, nhiều cụ đạp xe, đi bộ xuống Nghè nghỉ ngơi, đàm đạo chuyện nhà, chuyện sản xuất, chuyện quê hương. Có ông còn đèo cháu xuống Nghè chơi hóng mát trốn nóng  trong những ngày nóng bức cao điểm…


Các cụ thường nhắc cháu con: Đình, Nghè là những nơi thờ phụng linh thiêng, có kiêng có lành; là công trình văn hóa- tâm linh của làng quê, là công trình công cộng không phải làng nào cũng có. Các con, các cháu cần có trách nhiệm bảo vệ và tham gia tôn tạo, nếu làm ngược lại sẽ bị thần linh và dân thôn quở phạt./.

                      -----------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét