ĐẤT VÀ NGƯỜI ĐẠI MÃO-TRUNG THÔN ( 3 )
Lê Nho Lãng
ĐẤT VÀ NGƯỜI ĐẠI MÃO -TRUNG
THÔN kỳ 3 giới thiệu bài viết của cụ Lê Nho Lãng (ở xóm 2 Đại Mão) ghi
lại vài kỷ niệm về một người anh em trong họ Lê Nho ( và cũng là anh em đồng
hao với cụ Lãng) : Cụ Lê Nho Thâm .
Có thể nói cụ Lê Nho Thầm là một trong những tấm gương tiêu biểu của Người làng Giữa
vì nước vì dân, một trong những người Đại Mão đầu tiên giác ngộ cách mạng và
tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống Pháp, tham gia xây dựng miền Bắc hậu
phương, góp phần cùng cả nước kháng chiến Chống Mỹ cứu nước thắng lợi. Cụ chỉ có một
người con trai duy nhất, nhưng cũng cho con vào bộ đội, đi chiến trường Miền
nam và đã anh dũng hy sinh.
Về phong
cách sống, cụ là một “ quan cách mạng ” tầm trung, nhưng vẫn luôn là một con
người liêm khiết, đức độ và tình cảm; một trong nhiêu người có thực ở làng đã “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
của Chủ tịch Hồ Chí Minh ” từ khi chưa có cuộc vận động như ngày nay.
----------------------------------------------------------------
Chuyên mục mong được tiếp tục đăng các bài viết, hình ảnh của quý độc giả về mảnh
đất và con người quê hương. Bài viết xin đánh máy và gửi cho ông Lê Đình Ngạn, địa chỉ nganhttt@gmail.com
%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%
NHỚ ÔNG LÊ NHO THẦM
Ở quê tôi, nhắc tới ông
Lê Nho Thầm thì nhiều người thể hiện sự tôn trọng, nể phục. Họ nể trọng ông không phải vì ông
là một người giàu có, một nhà trí thức hay một ông to bà lớn nào; mà là một con
người hiền lành đức độ, vì nước vì dân
như nhiều người con của quê hương ta.
Ông Lê Nho Thầm là con
của cụ Lê Nho Cúc, thường gọi là cụ giáo Cúc. Cụ giáo Cúc sinh năm Giáp Ngọ
1894. Từ nhỏ, cụ học chữ Hán và cũng tham gia thi cử theo các khóa thi thời
phong kiến, nhưng chỉ đậu khóa sinh trong kỳ thi chữ Hán cuối cùng ở nước ta,
năm Ất Mão 1915. Sau đó, cụ Cúc cùng với cụ Đỗ Mạnh Đan (cùng người làng Giữa)
ra Hà Nội học chữ Pháp và chữ Quốc ngữ; có lẽ 2 cụ đó là những người đầu tiên
(sống ở quê tôi) tiếp xúc với chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Năm Canh Thân 1920, cụ
Đỗ Mạnh Đan được bổ làm kiểm học tại Hà Nội ( tương tự như thanh tra giáo dục
bây giờ), sau này mọi người thường gọi là cụ Kiểm Đan; còn cụ Lê Nho Cúc thì
được bổ về dạy Tiểu học tại tỉnh lỵ Bắc Ninh.
Sinh năm Ất Mão -1915, ông Thầm là con cả của cụ giáo
Cúc và cụ bà Đỗ Thị Mùi.Thuở nhỏ, ông sống ở quê theo học chữ Hán. Lớn lên,
theo cha “ lên tỉnh” học chữ quốc ngữ và tốt nghiệp trung học ( diplome ) năm
Canh Ngọ 1930, lúc đó cụ giáo Cúc qua đời. Không có điều kiện học lên được nữa,
ông đi làm gia sư cho con một nhà buôn ở
tỉnh Bắc.
Lớn lên, ông xây dựng gia
đình với bà Lê Thị Dư người họ Lê Doãn cùng làng. Bà Dư là một người buôn bán
tháo vát, đảm đang hiền đức, từ đó ông có một người bạn đời, một “ hậu phương ”
để có thể thỏa chí làm trai thời ấy.
Ông Lê Nho Thầm- Bà Lê Thị Dư |
Ban đầu, ông đi làm ký ga
tầu lửa, rồi năm 1940 ông làm ký mỏ tại mỏ Apatits Lào Cai. Được ảnh hưởng của
phong trào công nhân, nhiều lần ông đã đi biểu tình cùng phu mỏ. Chủ mỏ buộc
ông phải nghỉ việc, sau đó ông đi làm công cho hãng tầu buôn quốc tế.
Trong khi đó ở quê hương, những tổ chức quần chúng của Việt Minh đã được thành lập. Trước những ngày cách mạng tháng 8 nổ ra, Nhật đã đã đảo chính Pháp; một số thanh niên đã tham gia Bảo an đoàn ( một tổ chức tập hợp thanh niên học võ, tập thể dục...) do ông Đỗ Trọng Tư, Trần Dực... làm huấn luyện viên. Sau cách mạng tháng Tám các thanh niên này được tuyên truyền giác ngộ, là những thành viên tích cực của Việt Minh bảo vệ chính quyền cách mạng và tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Tiêu biểu là các ông Đỗ Tuấn Anh, Đỗ Trọng Tứ, Nguyễn Hữu Biên, Lê Đình Lượng, Lê Nho Hiện, Lê Nho Cung, Lê Đình Thỉnh, Nguyễn Đình Gia, Lê Doãn Bội, Lê Doãn Nhung, Nguyễn Đình Tài, Nguyễn Hữu Ngọc vv ... ngoài ra còn một số chị em nữ thanh niên, có cả các cụ phụ lão.
Trong khi đó ở quê hương, những tổ chức quần chúng của Việt Minh đã được thành lập. Trước những ngày cách mạng tháng 8 nổ ra, Nhật đã đã đảo chính Pháp; một số thanh niên đã tham gia Bảo an đoàn ( một tổ chức tập hợp thanh niên học võ, tập thể dục...) do ông Đỗ Trọng Tư, Trần Dực... làm huấn luyện viên. Sau cách mạng tháng Tám các thanh niên này được tuyên truyền giác ngộ, là những thành viên tích cực của Việt Minh bảo vệ chính quyền cách mạng và tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Tiêu biểu là các ông Đỗ Tuấn Anh, Đỗ Trọng Tứ, Nguyễn Hữu Biên, Lê Đình Lượng, Lê Nho Hiện, Lê Nho Cung, Lê Đình Thỉnh, Nguyễn Đình Gia, Lê Doãn Bội, Lê Doãn Nhung, Nguyễn Đình Tài, Nguyễn Hữu Ngọc vv ... ngoài ra còn một số chị em nữ thanh niên, có cả các cụ phụ lão.
Năm 1945, ông trở về quê sinh sống và bắt đầu hoạt động cách mạng. Sau đó gặp
ông Ngô Duyện ( tức Lê Dân), người xã Mão
Điền là bạn học cũ của ông lúc đó đã là Phó Chủ tịch UB huyện. Ông Duyện lấy
ông Thầm lên công tác trên huyện. Lúc đầu là Chánh Văn phòng, rồi Ủy viên Thư
ký Ủy ban Kháng chiến hành chính.
Năm 1947, ông Thầm được
kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Năm 1952, giặc Pháp mở nhiều cuộc càn
quét tại Thuận Thành và một số huyện khác. Chúng đốt phá nhiều nhà dân, tàn sát
nhiều người. Nhiều nông dân không có cơm ăn, áo mặc. Thông cảm với người dân ở nơi cơ quan kháng chiến đóng làm trụ sở thời bấy giờ, ông đã cho
một người dân một bộ quần áo mới mà hậu
phương ( bà Dư) mới gửi cho. Mến phục đức tính của ông, gia đình ông chủ nhà đã
cho người con trai lớn của mình làm con nuôi ông Thầm. Thế là ông có thêm một
người con nữa.
Lại nói đến bà Dư ở nhà,
mới chỉ có một cậu con trai ( Lê Nho Nhẫm), bà yêu quý
lắm. Bà kéo cho cậu một cái vòng và cái khóa cổ bằng vàng năm đồng cân. Chẳng
may, một hôm cô bé giúp việc trông con cho bà tên là Nguyễn Thị Nô, người thôn
Lam Cầu mải chơi để cho kẻ gian lấy mất chiếc vòng vàng trên cổ Nhẫm. Khi bà về
tới nhà, cô bé Nô sợ hãi, mặt mày tái mét, khóc òa lên. Bà liền hỏi đầu đuôi câu
chuyện. Nghe cô bé Nô kể lại, bà đã hiểu ra kẻ gian, không mắng Nô mà còn an ủi, động viên. Bà bảo : “ Kẻ gian nó
lấy của em, chứ cháu có đánh mất của em đâu mà cháu phải khóc”. Bà vuốt tóc,
lau nước mắt cho cô bé, lấy quà cho ăn. Tết năm ấy, mẹ Nô lên bảo với bà :
-
Cháu
nhà tôi ở với bà, nhưng mải chơi để kẻ gian đánh mất vòng vàng của cậu chủ. Bà
không bắt đền thế là may cho cháu lắm rồi. Tiền công năm nay thì cháu không dám
lấy của bà đâu ạ...
Bà Dư cười bảo :
-
Đấy
là kẻ trộm nó lấy chứ cháu Nô có lấy của tôi đâu. Nếu tôi không trả tiền công
cho cháu thì tôi nợ tiền kiếp cháu sao?
Và bà trả tiền công cho Nô, còn cho cô
bé tiền mừng tuổi. Từ đó mẹ con Nô luôn cảm phục công đức của bà Dư.
Ngày miền Bắc được giải
phóng, ông Thầm được cử đi tiếp quản thành phố Hà Nội và sau đó công tác luôn ở
đó. Với chức vụ Trưởng phòng tổ chức của Tổng cục Đường Sắt. Năm 1956 ông vào
trường Đại học Kinh tế Quốc dân, học và tốt nghiệp ra trường. Đến năm 1960 ông
làm Phó Giám đốc xưởng Cơ khí Cầu đường rồi làm Giám đốc xưởng. Năm 1968 ông sang
làm Phó Trưởng ty thông tin tín hiệu - Tổng cục Đường sắt và sau đó làm Quyền
trưởng ty.
Năm
1970, trong lúc đang làm việc ông nhận được tin người con trai duy nhất của ông
là Lê Nho Nhẫm chuẩn bị nhập ngũ. Ông xin nghỉ một ngày để về tiễn chân con,
động viên bà vợ. Ngày hôm sau ông lại đến cơ quan làm việc.
Có lần ông kể chuyện với tôi: Giai đoạn ấy,
trong một ngày làm việc, trước mắt ông
lại hiện lên mấy chữ Đảng - Tổ quốc - Gia đình, chồng sách trước mặt ông cũng
bị nghiêng ngả liên tục. Trong lúc ông
đang trầm tư thì một điện báo viên bước vào :
-
Báo cáo thủ trưởng, Ga Đò Lèn bị bom Mĩ đánh !....
Thế là tự nhiên tất cả đều tan biến… Trước
mắt chỉ còn nhiệm vụ: góp phần đảm bảo mạch máu giao thông để chi viện miền
Nam, đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc. Ông cầm máy gọi điện
thoại gọi cho hạt trưởng Hà Thanh xem sự cố đường dây ở ga Đò Lèn. Chỉ đạo khắc
phục xong sự cố , đảm bảo thông tin
thông suốt, an toàn cho các chuyến tầu cả dân sự và quân sự, ông mới an tâm.
Công
tác ở xa nhà, nhiều lúc ông nghĩ thương bà và hai cô con gái nhỏ ở nhà quá vất
vả mà ông chẳng đỡ gì được. Năm 1973 ông nhận được Quyết định chính thức làm
Trưởng ty. Ông nói với bạn bè rằng : Dù là Trưởng hay phó cũng là làm việc cả
thôi, chứ khác gì nhau?
Một
buổi sáng tháng 6- 1974 ông nhận được một tin không chính thức : Con trai duy
nhất của ông đã hy sinh! Mặc dù có lúc đã nghĩ điều đó có thể xảy ra nhưng tin
đó cũng làm ông choáng váng. Nuốt nước mắt vào trong, ông nghĩ đến câu : “ Vọng
lai chinh chiến kỉ nhân hồi” ( Từ xưa tới nay những người đi ra mặt trận có ít
người trở lại ).
Suốt
mấy ngày không ăn, chỉ hút thuốc và uống café, ông vẫn đi làm việc bình thường.
Ông Thóc, cán bộ cấp phó của ông nói với ông :
-
Mấy
ngày hôm nay trông anh gầy đi và hốc hác quá. Anh nên đi nghỉ điều dưỡng ít
ngày. Công việc cứ để chúng tôi lo.
Ông cười bảo với mọi người: “ Đi làm
việc cho Đảng mà lại béo ra thì ai chẳng đi làm việc”. Thế là hai người cùng
cười vui.
Việc
gì phải đến tất nhiên sẽ đến, một thời gian ngắn sau giấy bảo tử con trai ông được
gửi về địa phương. Thế là con trai ông đã hy sinh thật rồi. Lần này thì ông
khóc - khóc thật sự. Ngày hôm sau, ông xin phép về quê động viên vợ và hai con
gái . Ông tâm sự, động viên bà :
-Con mình đã hy sinh cho
tổ quốc, cho muôn người được sống trong độc lập tự do thì sự hy sinh của con
mình không bao giờ uổng cả.
Ông nói vậy để an ủi
bà chứ trong bụng thì thắt lại từng khúc. Tự an ủi mình ông nghĩ : Mình còn
hai đứa con gái ngoan ngoãn. sau này còn có thêm các con rể trông nom hai vợ
chồng mình. Các cụ thường nói : Dâu hiền là con gái, rể hiền là con trai …
Một tuần sau ông đến cơ
quan làm việc, mọi người đều đến hỏi thăm, chia buồn với ông, họ mang tất cả
tình cảm của mình dành cho ông .
Cuối năm 1974 ông được phân một ngôi nhà cấp 4
rộng 45 mét vuông ở Khu Nhà Dầu - phố Khâm Thiên. Vợ chồng anh lái tầu hỏa bên cạnh nhà chật, nảy ra một ý
nghĩ xin ông đổi cho . Thế rồi một tối vợ chồng người lái tàu sang nói với ông
“ Vợ chồng em thấy bác vừa được phân nhà 45 mét vuông mà bác ở đây chỉ có một
mình. Bác có tiêu chuẩn Giám đốc chúng em cũng chẳng dám ganh, bên nhà em 4
cháu với 2 vợ chồng em lại chỉ có 30 mét vuông, chỗ học hành của các cháu quá
chật hẹp, vợ chồng em sang xin với bác đổi tạm cho chúng em. Khi nào bác có nhu
cầu, chúng em lại chuyển giả bác.
Ông vui vẻ bảo vợ chồng anh lái tàu : “ Ta đổi giấy tờ cho chú là xong chứ làm gì
phải chuyển đi chuyển lại cho phiền”
Chuyện đổi nhà của Trưởng
ty Thầm mấy ngày sau truyền khắp Tổng cục, có người bảo là ông thiết gì nhà,
nhưng cũng có người bảo ông là con người hào hiệp. Chỉ có vợ chồng anh lái tàu
là sung sướng và biết ơn ông vô cùng, đến năm 1976 ông về hưu ngôi nhà để cho
người cháu họ ở nhờ.
= o0o=
Lại
nói đến 2 người con gái của ông , người con lớn là Lê Thị Đăng sau khi tốt
nghiệp Trung cấp sư phạm thì đi dạy học
và xây dựng gia đình cùng với anh Nguyễn Đăng Tại người thôn Lam Cầu. Anh Tại
hiện là Phó Giám đốc Công ty Thông tin tín
hiệu Bắc Giang.
Cô con gái thứ 2 là Lê
Thị Hường tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm cũng về huyện công tác, xây dựng gia đình
với anh Lê Đình Thanh người cùng thôn.
Hiện anh Lê Đình Thanh là Chủ tịch Ủy bạn nhân dân Huyện Thuận Thành. Tuổi cao,
ông bà được 2 người gái và 2 người con rể hiểu thảo sớm hôm chăm sóc động viên.
Khi ốm đau luôn được các con thuốc men chăm sóc tận tình , đúng như câu ông
nghĩ Dâu hiền là con gái Rể hiền là con trai.
Các cháu ngoại của ông bà, cháu nào cũng học
khá, giỏi. Chúng luôn dành cho ông bà những tình cảm kính trọng, mến yêu nhất.
Bạn bè, cấp dưới của ông
luôn luôn yêu mến, tôn trọng ông. Về hưu
tại quê, trong nhiều năm anh chị em cơ quan cũ tại Hà Nội vẫn dành cho ông
những tình cảm sâu sắc. Trong vòng hai chục năm, những ngày tết, ngày lễ ; khi ốm đau, anh em trong cơ
quan cũ thường xuyên thăm hỏi động viên, ấm áp tình người. Tôi không được chứng
kiến nhiều cơ quan mà anh em sống tình
cảm, thủy chung với nhau như thế.
Về anh em ruột của ông,
các ông Lê Nho Tất, Lê Nho Linh cũng là những cán bộ sớm tham gia phong trào
cách mạng từ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các ông là những công nhân
quân giới lứa đầu của quân đội ta.
Ông Lê Nho Tất, em ông Thầm |
Đến nay ông Lê Nho Thầm -
bà Lê Thị Dư đã qua đời. Các con, các cháu nội ngoại luôn hương khói khi ngày giỗ, ngày
tết . Ông bà đã gieo quả phúc thì mãi mãi cháu con được hưởng quả phúc. Chúng
luôn nhắc nhở nhau cố gắng học hành, học tập tấm gương đạo đức của ông bà và
các bậc tiền nhân để ở bên kia thế giới ông bà luôn vui lòng …
Nói thêm một chút về chị Lê Thị Đăng và anh Nguyễn Đăng Tại. Nhận nhiệm vụ thay anh Lê Nho Nhẫm trực tiếp ở và chăm sóc ông bà vì anh Nhẫm đã hy sinh, các anh chị Tại, Đăng đã cùng các em Thanh, Hường và các cháu luôn chăm sóc, động viên an ủi ông bà khi tuổi cao sức yếu. Nhận thức và cũng là để giáo dục cháu con về nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người với gia đình và xã hội, tại cổng nhà, anh Tại tự tay viết đôi câu đối nói về cái cổng, nơi phân giới giữa xã hội và gia đình :
Nhất phiến ám vân, phụ tử tôn tằng xuất quá tuân pháp luật
Song long giới địa, công hầu tao mặc nhập nội thị gia phong
Nói thêm một chút về chị Lê Thị Đăng và anh Nguyễn Đăng Tại. Nhận nhiệm vụ thay anh Lê Nho Nhẫm trực tiếp ở và chăm sóc ông bà vì anh Nhẫm đã hy sinh, các anh chị Tại, Đăng đã cùng các em Thanh, Hường và các cháu luôn chăm sóc, động viên an ủi ông bà khi tuổi cao sức yếu. Nhận thức và cũng là để giáo dục cháu con về nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người với gia đình và xã hội, tại cổng nhà, anh Tại tự tay viết đôi câu đối nói về cái cổng, nơi phân giới giữa xã hội và gia đình :
Nhất phiến ám vân, phụ tử tôn tằng xuất quá tuân pháp luật
Song long giới địa, công hầu tao mặc nhập nội thị gia phong
Tạm dịch nghĩa : ( Trên có nóc che trời, cha con cháu chắt ra ngoài nhất nhất phải tuân theo Pháp luật của Nhà nước - Hai cột ngăn cách giữa trong nhà - ngoài đường, bất kỳ ai dù là công hầu khanh tướng khi vào tới nhà cũng phải tuân theo nền nếp của gia đình...)
Một vế câu đối ở cổng nhà ông Thầm hiện nay |
Vế đối còn lại |
Bàn thờ tại nhà ông Thầm; Bên trên (trái) là ành cụ Đỗ Thị Mùi bên dưới là ảnh Liệt sĩ Lê Nho Nhẫm |
Câu chuyện trên chủ yếu tôi kể cho các cháu nhà tôi nghe về một con người, chỉ có phần thiếu chứ không có phần
thêm cho có vẻ ly kỳ.
Anh Tại- chị Đăng cùng các con, cháu |
Ông Lê Nho Thầm là một con người như thế.
Đại Mão, tháng 5 năm 2013
LÊ NHO LÃNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét